[Đăng ngày 18/09/2023]

Chiến lược phát triển ngành nghề nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

 

Phát triển ngành nghề nông thôn hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị; bảo đảm tăng trưởng xanh.

Phát triển kinh tế nông thôn gắn với mục tiêu nông nghiệp sinh thái

Mục tiêu chung của Chiến lược là phát triển ngành nghề nông thôn nhằm phát huy tiềm năng của khu vực nông thôn, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập, tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân; góp phần bảo vệ môi trường, tôn tạo, giữ gìn cảnh quan, phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc; phát triển kinh tế nông thôn gắn với mục tiêu nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh.

Mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành nghề nông thôn đạt khoảng 6,0 - 7,0%/năm. Thu nhập bình quân lao động trong các hoạt động ngành nghề nông thôn gấp 2,5 - 3 lần so với năm 2020.

Thu hút được khoảng 5 triệu lao động thường xuyên trong các hoạt động ngành nghề nông thôn. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng ngành nghề nông thôn đạt trên 6,0 tỷ USD/năm.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo khu vực ngành nghề nông thôn là 80% và tỷ lệ được cấp bằng, chứng chỉ đạt 35%.

Hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, ổn định đáp ứng 70% nhu cầu phát triển ngành nghề nông thôn.

Tầm nhìn đến năm 2045, ngành nghề nông thôn tiếp tục là hoạt động mang lại thu nhập, tạo việc làm cho lao động ở nông thôn, góp phần vào tăng trưởng chung của nền kinh tế quốc dân; phát triển ngành nghề nông thôn theo hướng phát triển bền vững, thông minh, thân thiện với môi trường, gắn với xây dựng không gian nông thôn xanh, sạch, đẹp; gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá, lịch sử và truyền thống của vùng, miền.

Định hướng phát triển ngành nông nghiệp

Chiến lược đưa ra định hướng phát triển theo nhóm ngành nghề nông thôn gồm: Nhóm chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản; Nhóm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; Nhóm xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn; Nhóm sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ; Nhóm sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh; Nhóm sản xuất muối; Nhóm dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn.

Trong đó, đối với nhóm chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản: Tăng tỷ lệ sử dụng máy móc, thiết bị và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường vào sản xuất. Cải tiến quy trình sản xuất theo chuỗi, đảm bảo dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng sức cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Đối với nhóm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ: Tạo các mẫu mã sản phẩm mới phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, phát triển sản xuất theo hướng làm quà tặng, đồ lưu niệm phục vụ đối tượng khách du lịch. Tăng cường liên kết giữa các làng nghề thủ công mỹ nghệ, kết hợp các nguyên liệu, vật liệu tạo ra các sản phẩm mới, độc đáo, có tính nghệ thuật, có khả năng sử dụng cao.

Đối với nhóm xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn: Nâng cao năng lực các cơ sở xử lý, chế biến tạo ra các loại nguyên liệu mới, phù hợp với xu hướng phát triển của ngành nghề nông thôn, nhất là sản xuất nguyên liệu tái chế, thân thiện với môi trường và thay thế cho nguyên liệu nhập khẩu. Hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn được cấp chứng chỉ bền vững gắn với các nhà máy sơ chế, chế biến, sản xuất các sản phẩm ngành nghề nông thôn, giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu...

Tập trung bảo tồn, khôi phục các nghề, làng nghề truyền thống

Về định hướng bảo tồn và phát triển làng nghề: Tập trung bảo tồn, khôi phục các nghề, làng nghề truyền thống đang có nguy cơ mai một, thất truyền, gắn với du lịch; xây dựng các kênh phân phối, giới thiệu sản phẩm làng nghề; ưu tiên thành lập các hội, hiệp hội nghề ở các địa phương, các trung tâm đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề; hỗ trợ thiết kế mẫu mã, hoàn thiện sản phẩm, thông tin thị trường phục vụ bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề.

Về thị trường tiêu thụ sản phẩm, đối với thị trường trong nước: Kết nối tiêu thụ sản phẩm với các đô thị lớn; đa dạng hoá các loại hình dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng cao; xây dựng các chương trình du lịch nông thôn, du lịch làng nghề để xuất khẩu tại chỗ các sản phẩm ngành nghề nông thôn.

Đối với thị trường xuất khẩu: Đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu vào các thị trường truyền thống như Trung Quốc, Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…; mở rộng sang các thị trường tiềm năng khu vực Trung Đông, Mỹ La tinh, châu Phi.

Đa dạng hoạt động trải nghiệm du lịch làng nghề, du lịch nông thôn

Về bảo vệ môi trường gắn với phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn, du lịch làng nghề: Khẩn trương di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm trong khu dân cư vào các cụm công nghiệp, khu sản xuất tập trung; giữ gìn cảnh quan nông thôn gắn với làng sinh thái, thông minh, bảo đảm xanh, sạch, đẹp và thân thiện môi trường; triển khai hiệu quả Chương trình phát triển du lịch nông thôn, du lịch làng nghề trong xây dựng nông thôn mới; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch; phát huy các giá trị văn hóa truyền thống nông thôn; đa dạng hoạt động trải nghiệm du lịch làng nghề, du lịch nông thôn.

Nguồn: https://khanhhoa.gov.vn/

[Đăng ngày 17/09/2023]

Quy định mới về hỗ trợ đất sản xuất cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo

Ủy ban Dân tộc vừa ban hành Thông tư số 02/2023/TT-UBDT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 02/2022/TT-UBDT hướng dẫn thực hiện một số dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025.

 

Thông tư sửa đổi, bổ sung một số quy định về hỗ trợ đất sản xuất. Theo đó, Thông tư nêu rõ, đối tượng được hỗ trợ đất sản xuất gồm:

1. Hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo sinh sống trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN); hộ nghèo dân tộc Kinh sinh sống ở xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK), thôn ĐBKK vùng đồng bào DTTS&MN sinh sống bằng nghề nông, lâm, ngư nghiệp chưa có đất sản xuất, có nhu cầu hỗ trợ đất sản xuất thì được chính quyền địa phương xem xét hỗ trợ trực tiếp bằng đất sản xuất.

2. Hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo sinh sống trên địa bàn vùng DTTS&MN; hộ nghèo dân tộc Kinh sinh sống ở xã ĐBKK, thôn ĐBKK vùng đồng bào DTTS&MN sinh sống bằng nghề nông, lâm, ngư nghiệp chưa có hoặc thiếu trên 50% đất sản xuất theo định mức quy định của từng địa phương, có nhu cầu chuyển đổi nghề hoặc có nhu cầu hỗ trợ đất sản xuất nhưng không bố trí được đất sản xuất thì được xem xét, hỗ trợ chuyển đổi nghề.

UBND cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất, điều kiện thực tế của địa phương để quy định định mức đất sản xuất nhưng không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp cho mỗi hộ gia đình, cá nhân theo quy định của pháp luật về đất đai làm cơ sở xác định hộ gia đình thiếu đất sản xuất.

Nội dung hỗ trợ và cách thức thực hiện

Hỗ trợ trực tiếp bằng đất sản xuất: Trường hợp địa phương còn quỹ đất có khả năng sản xuất mà không cần phải thực hiện khai hoang, phục hóa, cải tạo đất, UBND cấp huyện căn cứ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thực hiện giao đất sản xuất cho các hộ thuộc đối tượng thụ hưởng chính sách chưa có đất sản xuất theo quy định của pháp luật về đất đai.

Trường hợp địa phương còn quỹ đất sản xuất nhưng phải khai hoang, phục hóa, cải tạo đất để có khả năng sản xuất, UBND cấp huyện chỉ đạo tổ chức lập và thực hiện dự án khai hoang, phục hóa, cải tạo đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt để giao đất sản xuất cho các hộ thuộc đối tượng thụ hưởng chính sách chưa có đất sản xuất theo quy định của pháp luật về đất đai. Mức hỗ trợ từ ngân sách trung ương để thực hiện dự án khai hoang, phục hóa, cải tạo đất quy định tại khoản 3 Điều 3 Quyết định số 04/2023/QĐ-TTg.

Các hộ thuộc đối tượng hỗ trợ trực tiếp đất sản xuất nhưng chính quyền địa phương không bố trí được đất sản xuất, có nhu cầu vay vốn để tạo quỹ đất sản xuất thì được xem xét vay vốn tín dụng từ Ngân hàng Chính sách xã hội theo quy định tại các Điều 20, 21, 22, 23, 24 và 25 Nghị định số 28/2022/NĐ-CP và không được hỗ trợ chuyển đổi nghề.

UBND cấp tỉnh chỉ đạo UBND cấp huyện bố trí ngân sách địa phương và thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ được hỗ trợ đất sản xuất theo quy định.

Hỗ trợ chuyển đổi nghề

Các hộ thuộc đối tượng quy định được xem xét, hỗ trợ mua sắm nông cụ, máy móc, làm dịch vụ sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi sang làm các ngành nghề trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất, kinh doanh khác hoặc hỗ trợ học nghề để chuyển đổi nghề và được vay vốn tín dụng theo quy định tại các Điều 20, 21, 22, 23, 24 và 25 Nghị định số 28/2022/NĐ-CP.

Căn cứ danh sách các hộ dân được hỗ trợ chuyển đổi nghề đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, danh sách các hộ dân đăng ký phương thức hỗ trợ (bằng tiền, hiện vật hoặc học nghề), UBND cấp xã tổng hợp nhu cầu và phân loại theo từng phương thức thực hiện gửi cơ quan làm công tác dân tộc cấp huyện chủ trì, phối hợp với cơ quan tài chính cùng cấp tổng hợp, báo cáo UBND cấp huyện quyết định mức hỗ trợ cho từng hộ dân (mỗi hộ chỉ được hỗ trợ 01 lần).

Trường hợp các hộ dân nhận hỗ trợ bằng tiền, UBND cấp xã hướng dẫn các hộ dân tự mua sắm nông cụ, máy móc, làm dịch vụ sản xuất nông nghiệp, học nghề, chuyển đổi sang làm các ngành nghề trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất kinh doanh khác theo nhu cầu đã đăng ký và thực hiện thanh quyết toán theo quy định. Trường hợp các hộ đăng ký nhận hỗ trợ bằng hiện vật, UBND cấp huyện căn cứ nhu cầu, chỉ đạo đơn vị chuyên môn hoặc UBND cấp xã tổ chức mua sắm theo quy định của pháp luật và thực hiện cấp phát cho các hộ dân. Trường hợp các hộ đăng ký học nghề, UBND cấp huyện tổng hợp, giao đơn vị chuyên môn phối hợp với các cơ sở đào tạo hỗ trợ đào tạo nghề cho các hộ dân theo quy định.

Nguồn: https://khanhhoa.gov.vn/

[Đăng ngày 17/07/2023]
Khảo sát thực tế tình hình triển khai mô hình sản xuất giúp đỡ đồng bào tại xã Liên Sang, huyện Khánh Vĩnh

Nhằm đánh giá thực tế việc triển khai mô hình phát triển kinh tế cho các hộ gia đình khó khăn, đồng bào miền núi trên địa bàn xã Liên Sang; sáng ngày 06 tháng 7 năm 2023, Sở Nội vụ - đơn vị trưởng Nhóm các cơ quan, đơn vị giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tại xã Liên Sang, huyện Khánh Vĩnh đã tổ chức Đoàn khảo sát thực tế tại nơi canh tác của 02 hộ gia đình được giúp đỡ.

Tham dự Đoàn khảo sát có đại diện các đơn vị: Đoàn An dưỡng 26 Quân khu V và Công ty Cổ phần Sweetsoft. Trong năm 2022, Nhóm đã thực hiện hỗ trợ cho 02 hộ gia đình 200 cây điều giống, các loại phân bón cho cây giống.

Đoàn khảo sát kiểm tra thực tế tại rẫy vườn của 02 hộ gia đình

Tại rẫy vườn của 02 hộ gia đình, Đoàn khảo sát kiểm tra tình hình sâu bệnh trên cây điều, đánh giá các cây giống có sự phát triển tốt, đáp ứng cơ bản theo kỹ thuật chăm sóc. Đồng chí Nguyễn Văn Minh, Phó Giám đốc Sở Nội vụ hướng dẫn thêm về cách chăm bón phân cũng như cải tạo đất, làm cỏ và phun thuốc bảo vệ thực vật. 

Các hộ gia đình được hỗ trợ có nhận thức và trách nhiệm trong việc phát triển sản xuất, giảm nghèo bền vững, từng bước vươn lên ổn định cuộc sống.

  Tại buổi làm việc với UBND xã Liên Sang, đồng chí Nguyễn Văn Minh đề nghị địa phương tiếp tục tạo điều kiện hỗ trợ các hộ gia đình, theo dõi sát sao tình hình phát triển của cây giống. Đồng thời, tiếp tục khảo sát, đề xuất thêm các hộ gia đình khó khăn trên địa bàn xã để nhân rộng mô hình trồng điều trong thời gian tới. Tăng cường trách nhiệm của các tổ chức Đoàn thể (Hội nông dân xã, Đoàn thanh niên xã…) trong việc hỗ trợ phát triển kinh tế đối với các hộ gia đình khó khăn, đồng bào miền núi trên địa bàn./.

nguồn: snv.khanhhoa.gov.vn
[Đăng ngày 05/04/2022]
Vạn Ninh: Giá tôm hùm giảm, hộ nuôi thu hoạch cầm chừng

Hiện nay, trên địa bàn huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa), giá thu mua tôm hùm của thương lái giảm so với thời điểm Tết Nguyên đán 2022 nên nhiều hộ nuôi tôm hùm chỉ thu hoạch cầm chừng và bán nhỏ lẻ cho những người mua dạo tại các lồng, bè. Theo đó, sau Tết, tôm hùm có giá thu mua tại bè từ 1,5 đến 1,6 triệu đồng/kg thì nay giảm còn 1,1-1,2 triệu đồng/kg. Tôm hùm có trọng lượng nhỏ hơn, kích cỡ 2-3 con/kg giá dao động 850-950 nghìn đồng/kg. Riêng tôm loại dưới 0,5kg/con giá càng thấp hơn.
 
Theo Phòng Kinh tế huyện, hiện nay, toàn huyện có khoảng 34.000 ô lồng nuôi tôm hùm. Đến thời điểm này, người dân thu hoạch ước khoảng 97 tấn, tập trung tại 2 xã Vạn Thạnh và Vạn Hưng.

Nguồn Cổng thông tin điện tử Vạn Ninh

[Đăng ngày 09/03/2022]
Vạn Ninh: 2 tháng đầu năm sản lượng thủy sản thực hiện 2.346 tấn

2 tháng đầu năm 2022, tổng sản lượng thủy sản trên địa bàn huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa) thực hiện 2.346 tấn, đạt 17,4% so với kế hoạch. Trong đó, sản lượng khai thác 1.578 tấn; sản lượng nuôi trồng 768 tấn.
 
Các hộ nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện đang cải tạo ao đìa, sửa sang lồng bè đưa vào nuôi trồng vụ mới đối với một số loại thủy sản như tôm hùm, ốc hương và các loại cá. Theo đó, hiện nay, toàn huyện có 193ha ao đìa đưa vào nuôi trồng, đạt 25,7% so với kế hoạch, trong đó diện tích thả nuôi tôm chân trắng 101ha, ốc hương 92ha. Số lồng nuôi tôm hùm có 34.598 lồng và 4.399 lồng nuôi cá. 
                                                                                                                        Nguồn Cổng thông tin điện tử Vạn Ninh

[Đăng ngày 05/03/2022]
Hội Nghề cá Vạn Ninh: Vận động thành lập 5 tổ liên kết nuôi trồng thủy sản

Thời gian qua, Hội Nghề cá Vạn Ninh phối hợp với các đơn vị chức năng, chính quyền cơ sở tại huyện Vạn Ninh vận động thành lập 5 tổ liên kết nuôi trồng thủy sản tại các vùng nuôi tập trung trên địa bàn huyện. Cụ thể: Tổ hợp tác nuôi trồng thủy sản Vạn Hưng có 20 thành viên; Tổ hội nghề nghiệp nuôi tôm hùm lồng thôn Khải Lương (xã Vạn Thạnh) có 10 thành viên; Tổ hội nghề nghiệp nuôi trồng thủy sản thôn Ninh Tân (xã Vạn Thạnh) có 12 thành viên; Tổ hội nghề nghiệp nuôi trồng thủy sản xã Vạn Thắng có 14 thành viên và Tổ hội nghề nghiệp nuôi tôm thẻ chân trắng xã Vạn Thọ có 19 thành viên.


Hoạt động của các tổ liên kết nuôi trồng thủy sản tại địa phương thời gian gần đây gặp nhiều khó khăn do việc nuôi trồng thủy sản gặp bất lợi về môi trường nuôi, đầu ra của sản phẩm bấp bênh, chất lượng con giống không đảm bảo. Bên cạnh đó, thiên tai, dịch bệnh Covid-19 đã tác động rất lớn đến tình hình nuôi trồng thủy sản tại địa phương.

Nguồn: Báo điện tử Khánh Hòa

[Đăng ngày 22/02/2022]
Vạn Ninh tăng cường quản lý hoạt động nuôi trồng thủy sản


UBND huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa) vừa có văn bản chỉ đạo các địa phương, cơ quan, đơn vị tăng cường quản lý hoạt động nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên địa bàn huyện.
Theo đó, UBND huyện yêu cầu UBND các xã, thị trấn, các ngành, đơn vị phối hợp tổ chức hướng dẫn đăng ký NTTS bằng lồng bè, đối tượng thủy sản nuôi chủ lực, cấp phép NTTS theo quy định. Đồng thời, tăng cường vận động người dân thực hiện công tác kê khai ban đầu đối với chăn nuôi tập trung và NTTS; tuyên truyền, khuyến khích người dân tham gia mô hình NTTS theo hướng VietGAP để sản phẩm thủy sản đạt chất lượng, an toàn và truy xuất được nguồn gốc; hướng dẫn các cơ sở NTTS áp dụng nghiêm các giải pháp an toàn sinh học, tổ chức giám sát dịch bệnh chủ động tại cơ sở. Cùng với đó, tăng cường kiểm tra, xử lý dứt điểm các hộ nuôi là người ngoài tỉnh vào NTTS trên địa bàn huyện không đáp ứng các quy định của Luật Thủy sản năm 2017, tuyệt đối không để phát sinh mới hộ dân ngoài tỉnh tự ý vào NTTS trên địa bàn; tiếp tục tuyên truyền, vận động người dân di dời các lồng bè trước kè bờ biển thị trấn Vạn Giã vào khu vực biển xã Vạn Lương…

Nguồn Cổng thông tin điện tử Vạn Ninh

[Đăng ngày 25/07/2021]

Thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn

UBND tỉnh Khánh Hòa vừa phê duyệt chương trình khuyến công giai đoạn 2021-2025. Kinh phí thực hiện giai đoạn này tăng nhiều so với giai đoạn trước.
 
 
Phân xưởng đóng gói socola của Công ty Cổ phần Fifty Fresh Farms (thôn Bãi Giếng I, thị trấn Cam Đức, huyện Cam Lâm).
Phân xưởng đóng gói socola của Công ty Cổ phần Fifty Fresh Farms (thôn Bãi Giếng I, thị trấn Cam Đức, huyện Cam Lâm).
 
Kinh phí khuyến công và vốn đối ứng đều tăng 
 
Ông Lê Hữu Hoàng - Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh: Chương trình khuyến công sẽ hỗ trợ mạnh mẽ cho các hoạt động đầu tư vào sản xuất lĩnh vực CNNT, để phát triển sản xuất, chế biến các sản phẩm công nghiệp đặc trưng, những ngành nghề, lĩnh vực có lợi thế của tỉnh. Ngoài ra, chương trình sẽ tạo thuận lợi cho các cơ sở CNNT tiếp cận cơ hội phát triển kinh tế số; nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm nhằm gia tăng giá trị và hàm lượng công nghệ cao trong sản phẩm, thúc đẩy những hoạt động kết nối, giao thương. 
Theo đó, tổng kinh phí thực hiện chương trình khuyến công giai đoạn 2021 - 2025 gần 43 tỷ đồng, bao gồm nguồn khuyến công quốc gia hơn 21 tỷ đồng và khuyến công địa phương (ngân sách tỉnh) gần 22 tỷ đồng. Bên cạnh đó, nguồn vốn đối ứng của đơn vị thụ hưởng chương trình khuyến công ước đạt 125 tỷ đồng. So với giai đoạn 2016-2020, kinh phí khuyến công giai đoạn này đã tăng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp địa phương. 5 năm trước, toàn bộ kinh phí khuyến công trên địa bàn tỉnh hơn 17 tỷ đồng và khoảng 80 tỷ đồng vốn đối ứng của doanh nghiệp (DN) thụ hưởng. Theo báo cáo của Sở Công Thương, nguồn kinh phí khuyến công giai đoạn 2016-2020 chỉ đáp ứng một phần nhu cầu của các DN công nghiệp nông thôn (CNNT) trên địa bàn tỉnh, còn nhiều đơn vị mong muốn nhận được sự hỗ trợ từ chương trình. Vì số vốn có hạn nên phải lựa chọn, sàng lọc kỹ các đơn vị hỗ trợ.
 
Theo bà Lê Thu Hải - Giám đốc Sở Công Thương, giai đoạn 2021-2025, hoạt động khuyến công sẽ tập trung vào hỗ trợ đào tạo nghề, truyền nghề, nâng cao tay nghề, năng lực quản lý cho các cơ sở CNNT. Đồng thời, xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến vào sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; phát triển sản phẩm CNNT tiêu biểu. Cùng với đó, sẽ tiến hành liên kết, liên doanh, hợp tác kinh tế, phát triển các cụm công nghiệp và di dời những cơ sở gây ô nhiễm môi trường; nâng cao năng lực quản lý và thực hiện các đề án khuyến công. 
 
Nhiều giải pháp thực hiện
 
Chương trình đặt mục tiêu: Từ nay đến năm 2025, phấn đấu xây dựng 5 mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất sản phẩm mới, công nghệ mới; hỗ trợ 3 - 5 cơ sở áp dụng sản xuất sạch hơn trong các khâu sản xuất; hỗ trợ 70 - 80 lượt cơ sở CNNT tiêu biểu thực hiện các đề án ứng dụng máy móc, thiết bị tiên tiến vào khâu sản xuất; công nhận, khen thưởng 150 - 200 sản phẩm CNNT tiêu biểu cấp tỉnh. Bên cạnh đó, hỗ trợ 5 đề án xây dựng, cải tạo, nâng cấp hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường tại các cơ sở CNNT; giúp 100 đến 150 lượt cơ sở CNNT tham gia các hội chợ triển lãm trong nước; 30 lượt cơ sở CNNT xây dựng, đăng ký thương hiệu và đầu tư phòng trưng bày, giới thiệu sản phẩm…
Để đạt được mục tiêu đề ra, UBND tỉnh đã xây dựng những nhóm giải pháp cơ bản. Trong đó, tiếp tục tăng cường tuyên truyền, phổ biến các chính sách khuyến khích phát triển CNNT. Đồng thời, thường xuyên cập nhật thông tin về tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn, thông tin về chính sách mới cho các cơ sở CNNT để các cơ sở tích cực, chủ động tham gia, thụ hưởng chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh; qua đó góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
 
UBND tỉnh yêu cầu Sở Công Thương tăng cường triển khai thực hiện các hoạt động khuyến công; rà soát cơ chế, chính sách, đánh giá đúng những tồn tại, bất cập trong thực tế triển khai thực hiện. Trên cơ sở đó, tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính để ngày càng có nhiều tổ chức, cá nhân thụ hưởng được chính sách khuyến công. Sở Công Thương đẩy mạnh đào tạo và chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về khuyến công. Ngoài ra, chương trình có các giải pháp về nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ sản phẩm, khoa học công nghệ; tăng cường phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước với các đoàn thể để triển khai hiệu quả hoạt động khuyến công.
 
Ông Lê Hữu Hoàng - Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh cho biết, chương trình khuyến công giai đoạn 2021-2025 với mục tiêu huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài nước tham gia đầu tư, tạo động lực mới phát triển sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Từ đó, tạo việc làm, tăng thu nhập và góp phần xây dựng nông thôn mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, thực hiện có hiệu quả lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Nguồn: Báo điện tử Khánh Hòa

[Đăng ngày 19/07/2021]
Các văn bản thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng đại dịch Covid-19
Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ Quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19
23-qd.signed.pdf
Quyết định số 2045/QĐ-UBND ngày 16/7/2021 của UBND tỉnh Khánh Hòa về việc thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động không có giao kết hợp đồng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa
QD 2045.pdf
[Đăng ngày 28/05/2021]

Nuôi tôm trên bạt ở Vạn Ninh: Kiểm soát việc khai thác nước ngầm

Hạn chế cấp phép khoan giếng mới, khống chế lượng nước khai thác, áp dụng công nghệ để nuôi tôm trên bạt, đó là giải pháp được UBND tỉnh Khánh Hòa triển khai tại xã Vạn Thọ và Vạn Thạnh (huyện Vạn Ninh) - nơi đang là điểm nóng về nguy cơ cạn kiệt nguồn nước ngầm, nhất là trong mùa khô hạn sắp tới.


Sử dụng nước ngầm để nuôi tôm


Đưa chúng tôi đi trên ao tôm rộng 5,5ha tại thôn Tuần Lễ (xã Vạn Thọ), ông Lê Khoa Thông - chủ đìa tôm cho biết, từ ngày UBND tỉnh đưa ra hạn mức chỉ cho phép khai thác nước ngầm để nuôi tôm trên bạt với lưu lượng không vượt quá 10m3/ngày đêm, ông đã cải tạo và đầu tư 2 bể lắng (bể nổi) với giá 75 triệu đồng/bể để có thể hạn chế việc sử dụng nguồn nước ngầm.

 

Bể lắng chứa nước ngầm phục vụ nuôi tôm trên bạt của hộ ông Thông.

Bể lắng chứa nước ngầm phục vụ nuôi tôm trên bạt của hộ ông Thông.


Ông Thông nuôi tôm thẻ chân trắng ở khu vực thôn Tuần Lễ đã được 5 năm. Do nguồn nước ở vịnh Vân Phong ngày càng ô nhiễm, nhiều tạp chất gây hại cho tôm nên ngay từ thời điểm nuôi, ông đã đầu tư khoan giếng lấy nước ngầm từ biển để nuôi tôm hiệu quả hơn. “Từ vị trí giếng khoan lấy nước ngầm đến đìa tôm khoảng 400m, dẫn về bằng các ống nước lớn. Trước đây, nước ngầm được bơm trực tiếp vào ao tôm, ngày nào cũng thay nước tràn lan, lãng phí, không kiểm soát. Từ khi áp dụng bể lắng, nước ngầm dẫn về được xử lý vi sinh trước khi đưa vào ao tôm, chất lượng nước ổn định, cứ 2 - 3 ngày mới phải thay nước một lần nên lượng nước ngầm khai thác cũng giảm một nửa so với trước đây”, ông Thông chia sẻ.


Theo kết quả kiểm tra của Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung, Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT), vào thời điểm tháng 5-2020, đối với khu vực xã Vạn Thọ, các hộ xây dựng các đìa nuôi tôm có phủ bạt lót đáy và vách bờ đìa (nuôi tôm trên bạt). Nguồn nước mặn để nuôi tôm được khai thác từ các lỗ khoan đặt tại bờ đìa, thuộc phạm vi phân bố của tầng chứa nước bị nhiễm mặn trên bản đồ địa chất thủy văn tỷ lệ 1/50.000 tỉnh Khánh Hòa (vùng ngập mặn ven bờ vịnh). Nguồn bổ sung chủ yếu cho nước dưới đất là nước mưa nên khi hạn hán kéo dài sẽ thiếu hụt nguồn cấp. Thời điểm kiểm tra, diện tích vùng nước bị nhiễm mặn trong tầng đã phát triển và lấn khá sâu vào đất liền.

 

Tại khu vực xã Vạn Thạnh, hoạt động nuôi tôm trên bạt phát triển ở khu vực ven bờ biển Đầm Môn. Nước để nuôi tôm được lấy từ biển, hòa với nước nhạt lấy từ các lỗ khoan nông, sâu 4 - 6m, đặt cạnh bờ đìa. Để bảo vệ nguồn nước dưới đất, phải giám sát các hoạt động khai thác nước dưới đất tự phát để tránh nguy cơ cạn kiệt trữ lượng và suy thoái chất lượng nguồn nước (hạn chế khai thác, cấp phép khai thác, đăng ký khai thác).


Với thực trạng trên, tháng 7-2020, UBND tỉnh giao Sở TN-MT, UBND huyện Vạn Ninh tập trung chỉ đạo xã Vạn Thạnh, Vạn Thọ, các hộ đều thực hiện kê khai đăng ký với lưu lượng dưới 10m3/ngày đêm. Cùng với đó, UBND tỉnh yêu cầu chính quyền địa phương tăng cường kiểm tra, giám sát việc khai thác, sử dụng nước ngầm đối với các hộ đã thực hiện đăng ký, đảm bảo các hộ không khai thác vượt lưu lượng 10m3/ngày đêm; xử lý nghiêm các hộ khoan giếng mới tại khu vực xã Vạn Thọ để lấy nước nuôi tôm.

 

Ao sử dụng nguồn nước ngầm nuôi tôm trên bạt của hộ ông Thông.

Ao sử dụng nguồn nước ngầm nuôi tôm trên bạt của hộ ông Thông.


Được biết, hiện nay, xã Vạn Thọ và Vạn Thạnh có 121 hộ có giếng khoan khai thác, sử dụng nước ngầm để nuôi tôm. Các hộ đều thực hiện kê khai đăng ký với lưu lượng quy định. Ông Nguyễn Ngọc Thông - Phó Chủ tịch UBND xã Vạn Thọ cho biết, trên địa bàn xã có 80 hộ đang nuôi thủy sản trên diện tích 55ha thuộc 3 thôn: Tuần Lễ, Ninh Mã, Cổ Mã. Phần lớn các hộ nuôi đều dùng nước ngầm để nuôi tôm trên bạt. Từ khi UBND tỉnh đưa ra hạn mức về khai thác nước ngầm, tất cả các hộ nuôi tôm đều ký cam kết thực hiện và nhiều hộ áp dụng các công nghệ trong nuôi tôm để hạn chế tối đa việc sử dụng nước ngầm; kiểm soát việc đào giếng tràn lan lấy nước nuôi tôm như trước đây.


Cần kiểm soát hạn mức khai thác

 

Theo lãnh đạo Ban Quản lý Khu Kinh tế Vân Phong, căn cứ đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Khu Kinh tế Vân Phong đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 380 ngày 17-3-2014, các khu vực nuôi tôm trên bạt tại xã Vạn Thạnh và Vạn Thọ không được quy hoạch cho hoạt động nuôi trồng thủy sản (khu vực này được quy hoạch là đất phát triển đô thị và sinh thái nông nghiệp). Vì vậy, UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Vạn Ninh phối hợp với các sở, ngành liên quan tiếp tục xử lý việc nuôi tôm trên bạt, không để xảy ra tình trạng nuôi tôm trên bạt không đúng quy hoạch.

Theo ông Nguyễn Văn Phương - Phó Chủ tịch UBND xã Vạn Thạnh, tuy hạn mức khai thác nước ngầm đã được UBND tỉnh triển khai, nhưng khó khăn hiện nay là ở cấp độ địa phương không có đủ cán bộ chuyên môn, thiết bị để đi kiểm tra thực tế từng hộ và xác định có vượt mức khai thác hay không. Do đó, từ thời điểm UBND tỉnh triển khai áp dụng hạn mức khai thác nước ngầm đến nay, địa phương phải phối hợp với các đơn vị chuyên môn của tỉnh mới có thể thực hiện được việc kiểm tra.


PGS.TS Võ Văn Nha - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, nước ngầm là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá; nếu chúng ta khai thác không kiểm soát thì có thể khiến cả vùng bề mặt nước sẽ bị mất, dẫn đến khô hạn và lan qua nhiều vùng xung quanh. Nước ngầm cạn kiệt sẽ làm thay đổi cấu trúc của nền đất và dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn. Với hạn mức khai thác nước ngầm UBND tỉnh đặt ra không vượt quá 10m3/ngày đêm, để kiểm tra hạn mức khai thác, các cán bộ ở địa phương có thể thực hiện thường xuyên dựa vào hiện trạng từng hộ nuôi. Ví dụ, hộ nuôi với diện tích 3.000m2, độ cao 1,5m, có thể tính được ao đó có dung tích khoảng 4.500m3 nước ngầm. Với lượng nước đó, dựa vào quy trình công nghệ nuôi mà hộ đó đang sử dụng (hoặc không sử dụng công nghệ) là thay nước với mật độ bao nhiêu ngày một lần thì sẽ tính ra được lượng nước ngầm có vượt quá quy định hay không.

 

 

 

Nguồn: Báo điện tử Khánh Hòa

[Đăng ngày 25/04/2021]

Vạn Ninh: Quý I, sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản đạt 2.744 tấn

Quý I, sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa) đạt 2.744 tấn, bằng 20,45% kế hoạch, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2019.


Cụ thể, sản lượng khai thác đạt 2.132 tấn, bằng 20,46% kế hoạch; sản lượng nuôi trồng thủy sản thực hiện 612 tấn, bằng 20,4% kế hoạch. Hiện nay là thời điểm vào vụ thả nuôi các đối tượng như: Ốc hương, tôm hùm, tôm thẻ chân trắng. Đến nay, toàn huyện thả nuôi 57ha/355ha ao đìa và hơn 39.000 lồng bè. Ngoài việc tuyên truyền, vận động ngư dân không khai thác hải sản trái phép, không đánh bắt ở vùng biển nước ngoài theo khuyến cáo của Chi cục Thủy sản, chính quyền các xã, thị trấn ven biển tiếp tục vận động các hộ nuôi trồng thủy sản di dời lồng bè đến vùng nuôi phù hợp; đồng thời lưu ý các hộ nuôi chủ động bám sát các khuyến cáo của ngành chuyên môn trong lựa chọn con giống, quy trình theo dõi và phát hiện dịch bệnh trên đối tượng nuôi nhằm bảo đảm hiệu quả trong nuôi trồng thủy sản.
Nguồn Cổng điện tử Vạn Ninh

[Đăng ngày 25/03/2021]

Đến năm 2030, phát triển thủy sản thành ngành kinh tế quan trọng của quốc gia, sản xuất hàng hóa lớn gắn với công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển bền vững và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; có cơ cấu và hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; có thương hiệu uy tín, khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

Đó là mục tiêu đến năm 2030 của ngành thủy sản vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất thủy sản đạt 3,0 - 4,0%/năm

Theo Chiến lược, phấn đấu đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất thủy sản đạt 3,0 - 4,0%/năm. Tổng sản lượng thủy sản sản xuất trong nước đạt 9,8 triệu tấn (trong đó sản lượng nuôi trồng thủy sản 7,0 triệu tấn, sản lượng khai thác thủy sản 2,8 triệu tấn). Giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 14 - 16 tỷ USD.

Giải quyết việc làm cho trên 3,5 triệu lao động, có thu nhập bình quân đầu người lao động thủy sản tương đương thu nhập bình quân chung lao động cả nước. Xây dựng các làng cá ven biển, đảo thành các cộng đồng dân cư văn minh, có đời sống văn hóa tinh thần đậm đà bản sắc riêng gắn với xây dựng nông thôn mới.

Tầm nhìn đến năm 2045, thủy sản là ngành kinh tế thương mại hiện đại, bền vững, có trình độ quản lý, khoa học công nghệ tiên tiến; là trung tâm chế biến thủy sản sâu, thuộc nhóm ba nước sản xuất và xuất khẩu thủy sản dẫn đầu thế giới; giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu các ngành kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển.

Tiến tới chấm dứt nghề khai thác có tính hủy diệt nguồn lợi thủy sản

Định hướng phát triển theo lĩnh vực, trong thời tới thành lập mới, mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu bảo tồn biển. Quan tâm bảo vệ các khu vực tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non sinh sống và đường di cư của loài thủy sản. Phát triển bảo tồn biển gắn với du lịch sinh thái và nông thôn mới; tổ chức quản lý, bảo vệ các khu vực thủy sản tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non sinh sống và đường di cư của các giống loài thủy sản.

Về khai thác thủy sản, phát triển khai thác hải sản vùng khơi hiệu quả, bền vững trên cơ sở giảm dần cường lực khai thác đảm bảo phù hợp với trữ lượng nguồn lợi thủy sản; xây dựng cơ cấu nghề khai thác hợp lý, cơ cấu lao động chuyên ngành, kiêm nghề phù hợp với điều kiện tự nhiên, nguồn lợi thủy sản, đặc điểm kinh tế - xã hội từng vùng. Phân bổ hạn ngạch khai thác thủy sản phù hợp; giảm thiểu, tiến tới chấm dứt các nghề khai thác có tính hủy diệt nguồn lợi thủy sản, chuyển đổi các nghề xâm hại lớn đến nguồn lợi, sử dụng nhiều nhiên liệu sang các nghề thân thiện với môi trường và nguồn lợi thủy sản…

Về nuôi trồng thủy sản, chủ động phát triển hệ thống sản xuất giống thủy sản chất lượng cao. Ưu tiên phát triển giống các đối tượng nuôi chủ lực, giá trị kinh tế cao, các loài mới có tiềm năng; phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển thành một lĩnh vực sản xuất hàng hóa, khuyến khích phát triển nuôi trồng thủy sản quy mô công nghiệp ở các vùng biển mở; tạo khối lượng sản phẩm lớn phục vụ chế biến xuất khẩu và tiêu thụ nội địa…

Chuyển đổi cơ cấu nghề khai thác thủy sản

Định hướng phát triển theo vùng, tập trung nguồn lực củng cố, mở rộng, phát triển và thành lập mới các khu bảo tồn biển, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản phù hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội từng vùng, nhất là khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản ven biển, trong rừng ngập mặn, các đầm phá, trên thượng nguồn và lưu vực của các dòng sông; hỗ trợ thực hiện đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản, nhà nước đẩy mạnh công nhận và giao quyền quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản cho tổ chức cộng đồng ở vùng biển ven bờ và thủy vực nội địa.

Xây dựng các làng cá (ven đô, cửa sông, lòng hồ, bãi ngang, hải đảo,...) gắn với du lịch và các ngành nghề khác đảm bảo sinh kế cho cộng đồng ngư dân; chuyển đổi cơ cấu nghề khai thác thủy sản phù hợp với điều kiện tự nhiên, nguồn lợi thủy sản; giảm mạnh các nghề xâm hại đến nguồn lợi thủy sản; kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về thủy sản và khuyến ngư ở địa phương.

Theo khanhhoa.gov.vn

[Đăng ngày 25/03/2021]

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 14/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về chăn nuôi, trong đó quy định cụ thể mức phạt đối với vi phạm quy định về xử lý chất thải chăn nuôi.

Ảnh minh họa

Cụ thể, Nghị định quy định mức phạt tiền đối với vi phạm quy định về xử lý chất thải chăn nuôi trang trại. Theo đó, hành vi vi phạm quy định về xử lý chất thải rắn có nguồn gốc hữu cơ không đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia bị phạt tiền với các mức phạt như sau: Từ 1-3 triệu đồng đối với chăn nuôi trang trại quy mô nhỏ, từ 3-5 triệu đồng đối với chăn nuôi trang trại quy mô vừa, từ 5-7 triệu đồng đối với chăn nuôi trang trạng quy mô lớn.

Hành vi vi phạm quy định về xử lý nước thải chăn nuôi không đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật về nước thải chăn nuôi cho cây trồng bị phạt tiền từ 3-5 triệu đồng đối với chăn nuôi trang trại quy mô nhỏ, từ 5-7 triệu đồng đối với chăn nuôi trang trại quy mô vừa, từ 7-10 triệu đồng đối với chăn nuôi trang trạng quy mô lớn (*).

Hành vi vi phạm quy định về xử lý khí thải từ hoạt động chăn nuôi không đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải chăn nuôi sẽ bị phạt tiền với mức phạt như (*) nêu trên.

Mức phạt tiền quy định nêu trên là mức phạt tiền được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính do cá nhân thực hiện. Đối với tổ chức có cùng hành vi vi phạm, mức phạt tiền gấp 2 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.

Nghị định cũng quy định mức phạt tiền đối với vi phạm quy định về xử lý chất thải chăn nuôi nông hộ. Cụ thể, phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng đối với hành vi không có biện pháp xử lý phân, nước thải chăn nuôi bảo đảm vệ sinh môi trường và gây ảnh hưởng đến người xung quanh.

Ngoài ra, còn bị buộc phải thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường và báo cáo kết quả khắc phục trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm nêu trên.

Nghị định có hiệu lực từ 20-4-2021.

Theo khanhhoa.gov.vn

1


Đang online: 55

Số lượt truy cập: 1068907