Chiến lược phát triển
ngành nghề nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Phát triển ngành nghề
nông thôn hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị; bảo đảm tăng trưởng xanh.
Phát triển kinh tế
nông thôn gắn với mục tiêu nông nghiệp sinh thái
Mục tiêu chung của
Chiến lược là phát triển ngành nghề nông thôn nhằm phát huy tiềm năng của khu
vực nông thôn, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập, tạo công
ăn việc làm và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân; góp phần
bảo vệ môi trường, tôn tạo, giữ gìn cảnh quan, phát huy truyền thống, bản sắc
văn hóa dân tộc; phát triển kinh tế nông thôn gắn với mục tiêu nông nghiệp sinh
thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh.
Mục tiêu phấn đấu đến
năm 2030, tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành nghề nông thôn đạt khoảng 6,0 -
7,0%/năm. Thu nhập bình quân lao động trong các hoạt động ngành nghề nông thôn
gấp 2,5 - 3 lần so với năm 2020.
Thu hút được khoảng 5
triệu lao động thường xuyên trong các hoạt động ngành nghề nông thôn. Giá trị
xuất khẩu các mặt hàng ngành nghề nông thôn đạt trên 6,0 tỷ USD/năm.
Tỷ lệ lao động qua đào
tạo khu vực ngành nghề nông thôn là 80% và tỷ lệ được cấp bằng, chứng chỉ đạt
35%.
Hình thành các vùng
nguyên liệu tập trung, ổn định đáp ứng 70% nhu cầu phát triển ngành nghề nông
thôn.
Tầm nhìn đến năm
2045, ngành nghề nông thôn tiếp tục là hoạt động mang lại thu nhập, tạo
việc làm cho lao động ở nông thôn, góp phần vào tăng trưởng chung của nền kinh
tế quốc dân; phát triển ngành nghề nông thôn theo hướng phát triển bền vững,
thông minh, thân thiện với môi trường, gắn với xây dựng không gian nông thôn
xanh, sạch, đẹp; gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá, lịch sử và truyền
thống của vùng, miền.
Định hướng phát triển
ngành nông nghiệp
Chiến lược đưa
ra định hướng phát triển theo nhóm ngành nghề nông thôn gồm: Nhóm chế
biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản; Nhóm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; Nhóm
xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn; Nhóm sản
xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ
khí nhỏ; Nhóm sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh; Nhóm sản xuất muối; Nhóm
dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn.
Trong đó, đối với
nhóm chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản: Tăng tỷ lệ sử dụng máy móc, thiết
bị và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường
vào sản xuất. Cải tiến quy trình sản xuất theo chuỗi, đảm bảo dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng sức cạnh tranh,
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và hướng tới xuất khẩu.
Đối với nhóm sản xuất
hàng thủ công mỹ nghệ: Tạo các mẫu mã sản phẩm mới phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, phát triển sản xuất theo hướng làm quà
tặng, đồ lưu niệm phục vụ đối tượng khách du lịch. Tăng cường liên kết giữa các
làng nghề thủ công mỹ nghệ, kết hợp các nguyên liệu, vật liệu tạo ra các sản
phẩm mới, độc đáo, có tính nghệ thuật, có khả năng sử dụng cao.
Đối với nhóm xử lý,
chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn: Nâng cao năng
lực các cơ sở xử lý, chế biến tạo ra các loại nguyên liệu mới, phù hợp với xu
hướng phát triển của ngành nghề nông thôn, nhất là sản xuất nguyên liệu tái
chế, thân thiện với môi trường và thay thế cho nguyên liệu nhập khẩu. Hình
thành các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn được cấp chứng chỉ bền vững
gắn với các nhà máy sơ chế, chế biến, sản xuất các sản phẩm ngành nghề nông
thôn, giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu...
Tập trung bảo tồn,
khôi phục các nghề, làng nghề truyền thống
Về định hướng bảo tồn
và phát triển làng nghề: Tập trung bảo
tồn, khôi phục các nghề, làng nghề truyền thống đang có nguy cơ mai một, thất
truyền, gắn với du lịch; xây dựng các kênh phân phối, giới thiệu sản phẩm làng
nghề; ưu tiên thành lập các hội, hiệp hội nghề ở các địa phương, các trung tâm
đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề; hỗ trợ thiết kế mẫu mã, hoàn
thiện sản phẩm, thông tin thị trường phục vụ bảo tồn và phát triển nghề, làng
nghề.
Về thị trường tiêu
thụ sản phẩm, đối với thị trường trong nước: Kết nối tiêu thụ sản phẩm với các đô thị lớn; đa
dạng hoá các loại hình dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng cao; xây
dựng các chương trình du lịch nông thôn, du lịch làng nghề để xuất khẩu tại chỗ
các sản phẩm ngành nghề nông thôn.
Đối với thị trường
xuất khẩu: Đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu vào các thị trường truyền thống
như Trung Quốc, Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…; mở rộng sang các thị trường
tiềm năng khu vực Trung Đông, Mỹ La tinh, châu Phi.
Đa dạng hoạt động
trải nghiệm du lịch làng nghề, du lịch nông thôn
Về bảo vệ môi trường
gắn với phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn, du lịch làng nghề: Khẩn trương di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm
trong khu dân cư vào các cụm công nghiệp, khu sản xuất tập trung; giữ gìn cảnh
quan nông thôn gắn với làng sinh thái, thông minh, bảo đảm xanh, sạch, đẹp và
thân thiện môi trường; triển khai hiệu quả Chương trình phát triển du lịch nông
thôn, du lịch làng nghề trong xây dựng nông thôn mới; đa dạng hóa và nâng cao
chất lượng sản phẩm du lịch; phát huy các giá trị văn hóa truyền thống nông
thôn; đa dạng hoạt động trải nghiệm du lịch làng nghề, du lịch nông thôn.
Nguồn: https://khanhhoa.gov.vn/