[Đăng ngày 07/09/2023]
V/v tuyên truyền về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị tỉnh Khánh Hòa năm 2023
Cv 851 Phòng VHTT vv tuyen truyen cong tac xay dung Dang xay dung he thong chinh trị tinh Khánh Hoa năm 2023.signed.pdf
KT-2795- 851k.pdf
KT-2795A- 851.pdf
[Đăng ngày 07/09/2023]
V/v tuyên truyền về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị huyện Vạn Ninh năm 2023
853k.pdf
Cv 853 Phòng VHTT vv tuyen truyen cong tac xay dung Dang xay dung he thong chinh trị huyên van ninh năm 2023.signed.signed.pdf
[Đăng ngày 04/09/2023]

Chân lý vĩ đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý vĩ đại của đời sống xã hội loài người, một chân lý của thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” ở thời khắc cực kỳ quan trọng, mang tính bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng này của Người vừa có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, mang giá trị nhân văn sâu sắc, là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản ”Tuyên ngôn Độc lập” ngày 02/9/1945. (Ảnh: Tư liệu)

Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” được hình thành từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và là sản phẩm của quá trình tư duy khoa học, xuất phát từ thực tiễn đấu tranh giành độc lập, tự do của Nhân dân ta. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một cống hiến quý báu của Người trong kho tàng lý luận cách mạng của thời đại, là một đóng góp lớn lao trong phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới ở thế kỷ XX. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là mục tiêu, động lực, phương châm chỉ đạo thắng lợi sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tiếng gọi thiêng liêng, giục giã Nhân dân ta không quản hy sinh xương máu để giành và giữ độc lập, để xây dựng cuộc sống tốt đẹp cho chính mình. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là tư tưởng về hòa bình, về hạnh phúc, ấm no, tư tưởng về tiến bộ và công bằng xã hội, sáng ngời tư tưởng nhân văn cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” - Tư tưởng về hòa bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong quá trình lãnh đạo Nhân dân ta kháng chiến chống xâm lược, rất nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, dân tộc Việt Nam, Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, không muốn chiến tranh, nhưng vì bọn thực dân đế quốc xâm lược đất nước Việt Nam, nô dịch Nhân dân Việt Nam, nên người Việt Nam buộc phải đứng lên cầm vũ khí chiến đấu, để giành cho kỳ được tự do, độc lập.

Có hai thời điểm gay cấn, quan trọng của cách mạng nước ta thể hiện tập trung quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời điểm thứ nhất vào cuối năm 1946, thời điểm thứ hai là năm 1965.

Ngày 2 - 9 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt quốc dân đồng bào tuyên bố trước toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thực sự đã thành một nước tự do, độc lập”. Nhưng sau đó, với bản chất đế quốc, thực dân Pháp đã tìm mọi cách tiêu diệt Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà non trẻ, trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã tìm mọi cách hòa hoãn để đẩy lùi chiến tranh, giữ cho được độc lập, tự do mà Nhân dân ta mới giành được từ tay Nhật. Nhưng, chúng ta càng hòa hoãn thực dân Pháp càng lấn tới. Khi không thể bằng con đường hòa hoãn, bằng con đường hòa bình thương lượng để giữ vững độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới kêu gọi Nhân dân ta trường kỳ kháng chiến để giành, giữ độc lập, tự do. “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hoà bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh... Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách. Chúng tôi tha thiết với nền độc lập,... Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi hàng bao nhiêu sinh mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm. Chúng tôi không lạ gì những điều đang đợi chúng tôi… Việt Nam đã sẵn sàng chịu đựng tất cả, chứ không chịu mất tự do”[1]. “... Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...”.

Khi chính sách thực dân mới bị phá sản, Mỹ buộc phải can thiệp trực tiếp vào miền Nam và sau đó mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Trước những hành động xâm lược của đế quốc Mỹ và những luận điệu xuyên tạc, hăm dọa của nhà cầm quyền nước Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công khai trước dư luận toàn thế giới: “Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, nhưng hòa bình không thể tách rời độc lập dân tộc. Nhân dân Việt Nam biết rằng muốn có hòa bình thật sự thì phải có độc lập thật sự; và đấu tranh cho độc lập dân tộc tức là đấu tranh bảo vệ hòa bình. Nhân dân Việt Nam quyết không dung thứ cho bọn xâm lược Mỹ phá hoại hòa bình, giày xéo lên độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình”[2]. “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, Nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.

Chân lý, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” được rút ra từ nhận thức sâu sắc bản chất xâm lược, hiếu chiến, ngoan cố của chủ nghĩa đế quốc, mà trực tiếp là đế quốc Pháp, Mỹ. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” được khái quát từ thực tiễn đấu tranh kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm của Nhân dân Việt Nam ở thế kỷ XX. Vì muốn có hòa bình thực sự mà Nhân dân Việt Nam phải chiến đấu chống quân xâm lược để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho chính bản thân mình; Nhân dân Việt Nam trường kỳ kháng chiến giành cho được tự do, độc lập cũng là để muốn có hòa bình thực sự. Hòa bình trong độc lập tự do, độc lập tự do là nội hàm của hòa bình; không có độc lập tự do thì hòa bình chỉ là hòa bình giả hiệu, đó là nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện trong câu nói nổi tiếng của Người “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Không chỉ đấu tranh vì hòa bình thực sự cho dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là một người chiến sĩ kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người đã nhiều lần khẳng định: “tự do độc lập là quyền trời cho của mỗi dân tộc...”[3]. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã vượt qua ngoài lãnh thổ Việt Nam, trở thành mục tiêu, phương châm hành động của Nhân dân các nước bị xâm lược, bị nô dịch. Ở đâu có áp bức, bóc lột, bất công là ở đó toả sáng tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và tư tưởng đó đã trở thành khẩu hiệu đấu tranh vì hòa bình của Nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Như vậy, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” còn là tư tưởng về tự do bình đẳng giữa các dân tộc, tư tưởng về độc lập chủ quyền của các quốc gia dân tộc trên toàn thế giới.

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” - Tư tưởng về hạnh phúc, ấm no, tiến bộ và công bằng xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Độc lập, tự do đi cùng với ấm no, hạnh phúc tiến bộ và công bằng xã hội là tư tưởng chủ đạo trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhiều lần khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành...”, “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì...”, ...“Chủ nghĩa xã hội là cái gì? Là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do. Nhưng nếu muốn tách riêng một mình mà ngồi ăn no mặc ấm, người khác mặc kệ, thế là không tốt. Mình muốn ăn no mặc ấm, cũng cần làm sao cho tất cả mọi người được ăn no mặc ấm, như thế mới đúng. Muốn như vậy, phải ra sức công tác, ra sức lao động sản xuất”[4].

Độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đó là tư tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì theo Người, thì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo độc lập cho các dân tộc và tự do cho Nhân dân; chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo độc lập tự do thực sự; và chỉ có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu độc lập tự do được đảm bảo, nghĩa là không giữ được độc lập thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đặt độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội và độc lập tự do là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, có hiểu đầy đủ, trọn vẹn thể hiện sự thấu triệt sâu sắc ý nghĩa tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, xét theo tiến trình lịch sử cách mạng nước ta, là một quá trình liên tục, giành độc lập tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng đó lại là sự kết hợp biện chứng ngay trong quá trình đấu tranh để giành tự do độc lập đã phải tiến hành những hoạt động nhằm xây dựng những yếu tố của chủ nghĩa xã hội, để sau khi có độc lập là có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ độc lập tự do. Chủ nghĩa xã hội đã là một động lực để Nhân dân ta đấu tranh giành độc lập dân tộc, vì sau khi có độc lập dân tộc, chúng ta sẽ xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân lao động. Đồng thời, độc lập tự do là một động lực để chúng ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có dưới chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới được vững bền, Nhân dân mới được tự do, ấm no, hạnh phúc.

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã là một động lực để Nhân dân ta vượt qua mọi gian khổ hy sinh, đánh thắng các đế quốc to, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Ngày nay, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” vẫn là, và phải là một động lực để chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, để đến năm 2030 là nước phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Vì vậy, không nuôi dưỡng, hun đúc, phát huy ý thức về độc lập tự do trong mỗi con người Việt Nam hôm nay, thì chúng ta sẽ không khơi dậy được mọi nguồn lực, không tạo ra được một nội lực tinh thần to lớn để chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, xây dựng đất nước ta “Đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong ước.

Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã, đang và mãi mãi chỉ đường cho Nhân dân ta trên con đường xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, phồn vinh, hạnh phúc, tiến bộ, dân chủ và công bằng xã hội hiện nay./.

Nguồn: Báo điện tử Khánh Hòa

[Đăng ngày 02/09/2023]

Công tác dân vận trong tình hình mới: Nâng cao vai trò của nhân dân

Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 25/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác dân vận, hướng mạnh về cơ sở, tập trung chỉ đạo việc nắm bắt và giải quyết kịp thời, có hiệu quả những kiến nghị, vấn đề bức xúc chính đáng của nhân dân.

Nhiều tập thể điển hình

Thời gian qua, huyện Diên Khánh tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm các dự án làm động lực phát triển đô thị và kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Điển hình như: Dự án “Kè và đường dọc sông Cái qua xã Diên An”; mở rộng đường Hương lộ 5; đường gom Quốc lộ 27C; các tuyến đường liên xã; Khu đô thị hành chính huyện; Cụm Công nghiệp Diên Thọ; dự án thành phần đoạn Vân Phong - Nha Trang thuộc Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông đoạn qua địa phận huyện Diên Khánh… Nhằm thực hiện tốt các dự án, trong công tác giải phóng mặt bằng (GPMB), huyện luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ quan trọng “Đi trước, mở đường”, tạo sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân, giúp tiến độ triển khai các dự án được đảm bảo và không phát sinh các điểm nóng, dẫn đến khiếu kiện, khiếu nại phức tạp. 

 

Một góc huyện Diên Khánh. (Ảnh: M.H)

Theo đồng chí Nguyễn Đức Phú - Trưởng Ban Dân vận Huyện ủy Diên Khánh, xuyên suốt quá trình thực hiện, Huyện ủy luôn sâu sát, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác bồi thường, GPMB; công khai, minh bạch các khoản nhân dân được hưởng khi thu hồi đất; giải quyết thỏa đáng các trường hợp khiếu nại. Người đứng đầu các cấp ủy, chính quyền được phân công phụ trách các địa phương trong vùng dự án đi qua thường xuyên theo dõi, đi thực tế nắm tình hình; phát huy vai trò của tổ dân vận thôn, tổ dân phố; chú trọng tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong gia đình thuộc diện phải GPMB; tập trung vận động những gia đình có uy tín nhằm tạo niềm tin cho các hộ dân còn lại noi theo.

Đối với công tác xây dựng nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao, huyện tập trung phát huy hiệu quả các mô hình “Dân vận khéo” sát với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”… Nhờ đó, nhân dân toàn huyện đã đồng tình đóng góp ngày công lao động, hiến đất, phá dỡ và dịch chuyển rào để cùng Nhà nước làm đường giao thông, công trình thủy lợi, kênh mương nội đồng, các công trình phục vụ dân sinh... với tổng trị giá gần 100 tỷ đồng. Đến nay, toàn huyện có 14/16 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 2 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và đang tập trung rà soát các tiêu chí để phấn đấu đạt chuẩn huyện nông thôn mới năm 2023.

 

Người dân thu gom rác tại khu vực công cộng trên địa bàn xã Vĩnh Lương, TP. Nha Trang.

10 năm qua, UBMTTQ Việt Nam tỉnh và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên, đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, kiều bào ở nước ngoài... góp phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững mạnh. Đặc biệt, MTTQ và các tổ chức thành viên luôn tích cực vận động các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị... đóng góp Quỹ Vì người nghèo các cấp. Từ nguồn quỹ, toàn tỉnh đã hỗ trợ xây dựng, sửa chữa được 5.247 căn nhà cho người nghèo với tổng số tiền gần 126.400 tỷ đồng.

Trên đây chỉ là 2 trong số 26 tập thể, cá nhân được Chủ tịch UBND tỉnh tặng bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong 10 năm thực hiện Nghị quyết số 25/2013 và 5 năm thực hiện Kết luận số 43/2019 của Ban Bí thư về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”.

Hướng về cơ sở

Tại hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 25/2013 và 5 năm thực hiện Kết luận số 43/2019, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đánh giá công tác dân vận của hệ thống chính trị tỉnh ngày càng đi vào nề nếp, không ngừng đổi mới cả về nội dung, hình thức hoạt động, tạo ra những khởi sắc, chuyển biến tích cực trên các mặt công tác; công tác dân vận chính quyền ngày càng đổi mới theo hướng “Gần dân, trọng dân, có trách nhiệm với nhân dân”, tập trung vào đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới lề lối làm việc, nâng cao đạo đức công vụ, tinh thần, thái độ công tác nhằm tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Các cấp, ngành thực hiện nghiêm túc công tác tiếp công dân, hòa giải cơ sở, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; các chủ trương, chính sách hỗ trợ hộ nghèo, cận nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được phát huy và mang lại nhiều hiệu quả thiết thực; phong trào “Dân vận khéo” tiếp tục thu hút nhiều cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia… Đến nay, toàn tỉnh có hơn 2.800 mô hình “Dân vận khéo”; trong đó có hơn 650 mô hình lĩnh vực kinh tế, hơn 1.400 mô hình lĩnh vực văn hóa - xã hội, hơn 500 mô hình lĩnh vực quốc phòng - an ninh, 265 mô hình trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

 

Lực lượng vũ trang và người dân ra quân dọn rác ở bãi biển xã Vĩnh Lương, TP. Nha Trang.

Theo đồng chí Nguyễn Khắc Toàn - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, hiện nay, Đảng bộ tỉnh tiếp tục nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các nghị quyết đại hội, nghị quyết về xây dựng và phát triển tỉnh. Để thực hiện hoàn thành các mục tiêu trên, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xác định, công tác dân vận là một trong những nhiệm vụ trong tâm, chiến lược cần tiếp tục được quan tâm đẩy mạnh. Đồng chí chỉ đạo, thời gian tới, các cấp ủy, chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, tạo đồng thuận cao và sự hiệp lực tích cực của nhân dân trong quá trình triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia, việc triển khai các dự án, công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, thường xuyên phối hợp với cơ quan chức năng nắm bắt tình hình hoạt động các hội quần chúng, tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân để tham mưu cấp ủy giải quyết kịp thời các ý kiến, kiến nghị, phản ánh của nhân dân…

Nguồn từ Cổng thông tin điện tử Tỉnh uỷ Khánh Hoà

 

[Đăng ngày 30/08/2023]

Nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng

Kiểm soát quyền lực được Đảng ghi nhận từ rất sớm; đến nay, cơ chế này ngày càng được hoàn thiện. Nhận thức được tầm quan trọng của việc kiểm soát quyền lực đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tỉnh đã xác định một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để nâng cao hiệu quả của kiểm soát quyền lực.


Tăng cường kiểm soát quyền lực


Thời gian qua, Đảng ta đã đề ra và hoàn thiện nhiều quan điểm, chủ trương liên quan trực tiếp đến kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Có thể kể đến Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền… Có thể khẳng định, chưa bao giờ công tác phòng, chống tham nhũng lại được chỉ đạo mạnh mẽ, đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả như hiện nay; đã để lại dấu ấn nổi bật, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.


Cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc kiểm soát quyền lực đối với công tác phòng, chống tham nhũng. Thời gian qua, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Khánh Hòa đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng phổ biến, quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết, quy định, quan điểm của Trung ương liên quan trực tiếp đến kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã đăng tải và tuyên truyền thường xuyên nội dung kiểm soát quyền lực đối với công tác phòng, chống tham nhũng tại Trang Thông tin điện tử (http://tuyengiaokhanhhoa.vn), “Nha Trang Ngày Mới” do ban quản lý và biên soạn các tài liệu nội dung liên quan về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong Bản tin Thông tin nội bộ phát hành đến các huyện, thị ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc trong toàn tỉnh. Qua đó, góp phần hiệu quả trong công tác tuyên truyền, nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát quyền lực đối với phòng, chống tham nhũng.


Trong năm 2022, toàn tỉnh đã tổ chức 612 lớp cho 69.473 lượt người tham dự nhằm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực bằng nhiều hình thức phù hợp với tình hình của từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Các cơ quan báo chí của tỉnh duy trì thường xuyên các chương trình, chuyên mục tuyên truyền, phổ biến chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; phản ánh gương người tốt, việc tốt có tinh thần đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; các gương điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.


Cùng với đó, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, công khai, minh bạch thông tin và lấy ý kiến góp ý của nhân dân về các chế độ, chính sách, dự án... được các cấp ủy chỉ đạo thực hiện đúng quy định, đảm bảo “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Ban tuyên giáo các cấp đã phối hợp với các địa phương, đơn vị liên quan thực hiện tốt công tác tuyên truyền; các địa phương, đơn vị đã công khai thông tin về phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư; thực hiện tốt công tác cải cách hành chính với mục tiêu giảm thời gian, giảm thủ tục, giảm số lần đi lại của người dân; triển khai đăng ký cấp hộ chiếu, khai báo lưu trú qua mạng…


Tiếp tục triển khai các giải pháp


Để nâng cao hiệu quả của kiểm soát quyền lực trong phòng, chống tham nhũng, tỉnh đã xác định một số nhiệm vụ, giải pháp, đó là: Không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước để nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo tinh thần “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”.  Cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy và các cơ quan, đơn vị phải nghiêm túc thực hiện những quy định của Đảng về kiểm soát quyền lực trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo; cụ thể hóa vào mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp và hiệu quả. Cùng với đó, tiếp tục phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đồng thời đổi mới, nâng cao chất lượng học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc trong đời sống tinh thần của xã hội. Bên cạnh đó, tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên; chủ động đấu tranh phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phát huy sức mạnh tổng hợp của thông tin, truyền thông và đội ngũ báo cáo viên các cấp trong công tác tuyên truyền, giáo dục, đảm bảo sự thống nhất về nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về kiểm soát quyền lực nhà nước gắn liền với phòng, chống tham nhũng. Hiện nay, ngành tuyên giáo toàn tỉnh đang triển trai thực hiện Quyết định số 238-QĐ/TW, ngày 30-9-2020 của Ban Bí thư khóa XII về “Quy chế phối hợp giữa Ban Tuyên giáo các cấp với cơ quan nhà nước cùng cấp trong việc thực thi pháp luật, triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề nổi cộm, nhân dân quan tâm. Trong đó, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức ký kết Chương trình phối hợp với gần 20 cơ quan, đơn vị nhằm tăng cường phối hợp, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất cao về nhận thức, hành động của hệ thống chính trị và nhân dân trong thực thi pháp luật; triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; giải quyết các vấn đề nổi cộm, được người dân quan tâm...


Có thể nói rằng, chưa bao giờ công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mà trọng tâm là việc kiểm soát quyền lực được tỉnh triển khai đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả như hiện nay. Các nghị quyết, chỉ thị, quy định được quán triệt và thực hiện nghiêm túc; công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng được từng bước hoàn thiện theo hướng “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng. Qua đó, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, tạo sự phấn khởi, tin tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự điều hành của Nhà nước trong bối cảnh Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Khánh Hòa tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, nỗ lực, quyết tâm thực hiện hiệu quả mục tiêu, định hướng của năm “quy hoạch - đầu tư” tạo đà bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội, từng bước hiện thực hóa Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. 

Nguồn từ Cổng thông tin điện tử Tỉnh uỷ Khánh Hoà

[Đăng ngày 20/08/2023]

Cách mạng tháng Tám năm 1945: Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng

Cách mạng tháng Tám năm 1945 là mốc son chói lọi, vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước bước sang kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đồng thời để lại nhiều bài học quý báu về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

 

Quần chúng cách mạng và tự vệ chiến đấu Hà Nội chiếm Phủ Khâm sai (Bắc Bộ phủ), ngày 19-8-1945. (Ảnh: TƯ LIỆU TTXVN)

Những bài học quý báu

Một là, tích cực, chủ động nghiên cứu nắm chắc diễn biến tình hình, xác định đúng đắn thời cơ cách mạng để tiến hành tổng khởi nghĩa. Đầu năm 1945, tình thế cách mạng thế giới có sự chuyển biến mau lẹ, chiến tranh thế giới lần thứ Hai đến giai đoạn kết thúc với thắng lợi trên chiến trường thuộc về Hồng quân Liên Xô và quân đồng minh. Nửa cuối tháng 4/1945, Liên xô tiến hành tổng công kích vào Béc-lin, buộc phát xít Đức phải ký văn bản đầu hàng vô điều kiện (09/5/1945). Trên đà thắng lợi, ngày 08/8/1945, Liên Xô tuyên chiến và đánh bại đội quân Quan Đông hùng mạnh nhất của phát xít Nhật, khiến thành viên cuối cùng trong trục phát xít phải chịu khuất phục, đầu hàng vô điều kiện (14/8/1945).

Trong nước, dưới ách thống trị hà khắc, tàn bạo của thực dân, phong kiến, nhất là kể từ khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương thực thi những chính sách vô nhân đạo phục vụ chiến tranh, gây ra nạn đói khắp cả nước, đẩy quần chúng nhân dân lao động vào cùng cực, không thể chịu đựng được, phải vùng lên đấu tranh để tự cứu mình. Sau các sự kiện Nhật đảo chính Pháp và Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện; quân Nhật, chế độ phong kiến và chính quyền bù nhìn, phản động rơi vào hoang mang, khủng hoảng tột độ, không đủ khả năng đàn áp phong trào cách mạng. Trong khi đó, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh không ngừng lớn mạnh, phát triển rộng khắp trong cả nước, quy tụ, đoàn kết đông đảo tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đảng phái… đứng lên đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Đánh giá về tình hình lúc bấy giờ, đồng chí Trường Chinh nhấn mạnh: “Cả Đông Dương lúc ấy đang như một cánh đồng cỏ khô. Từng tập, từng tập bản chỉ thị của Ban Thường vụ nhanh chóng theo chân các đồng chí giao thông bay đến các miền đất nước như những cánh chim lửa. Và lửa cách mạng đã bùng lên! Không có ai dập được, không có lực lượng phản động nào, không có sức mạnh tàn bạo nào ngăn cản được ngọn lửa cách mạng đang bùng cháy trong cả nước”(1). Đến tháng 8/1945, nhận thấy những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân đồng minh vào Đông Dương (từ 14/8 đến 05/9/1945), với quyết tâm dù có phải hi sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành độc lập cho dân tộc.

Hai là, kịp thời xác định chủ trương, quyết sách lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức tiến hành tổng khởi nghĩa giành thắng lợi trong thời gian rất ngắn. Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bộ Việt Minh đã nắm chắc diễn biến tình hình và thời cơ cách mạng, kịp thời ban hành chủ trương, quyết sách để lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa, như: Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta; triệu tập Hội nghị quân sự Bắc kỳ; Chỉ thị tổ chức Ủy ban dân tộc giải phóng các cấp; chuyển căn cứ chỉ đạo cách mạng từ Pác Bó về Tân Trào; xác định các nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa, v.v.. Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động của tổ chức Việt Minh các cấp; chuyển mọi hình thức tuyên truyền cổ động, tổ chức và đấu tranh sang thời kỳ tiền khởi nghĩa, tiến dần từng bước lên tổng khởi nghĩa; tiến hành những hình thức biểu tình tuần hành, bãi công chính trị, bất hợp tác với Nhật; xây dựng các đội Tự vệ cứu quốc, phát động đánh du kích, thống nhất các chiến khu và thành lập Việt Nam Giải phóng quân; tổ chức các ủy ban khởi nghĩa, v.v.. Trước khi quân Nhật tuyên bố đầu hàng một ngày (13/8/1945), Trung ương Đảng và Tổng Bộ Việt Minh tổ chức thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách; và ngay trong ngày hôm đó, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ra Quân lệnh số 1, ban Lệnh Tổng khởi nghĩa. Tại Đại hội quốc dân (16/8/1945) đã thông qua Lệnh Tổng khởi nghĩa và quy định quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, quốc ca là bài tiến quân ca; thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Bác Hồ làm Chủ tịch. Trong thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(2).

Những chủ trương, quyết sách trên là sợi chỉ đỏ thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và quốc dân, đồng bào tranh thủ thời gian, chớp lấy thời cơ, nhất tề đứng lên, tiến hành Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi trên phạm vi cả nước chỉ trong 2 tuần (từ ngày 14 - 28/8/1945). Các sự kiện thành lập, thông qua danh sách thành viên Chính phủ lâm thời (28, 29/8/1945) và vua Bảo Đại thoái vị (30/8/1945) đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ thực dân, phong kiến; ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.

Ba là, kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, linh hoạt đấu tranh đẩy lùi nguy cơ, thách thức bảo vệ thành quả cách mạng. Tuy đất nước giành được độc lập, nhưng chúng ta phải đối mặt với muôn vàn nguy cơ, thách thức, khó khăn. Quân tưởng mang theo “Việt Quốc”, “Việt Cách” kéo vào với những yêu cầu phi lý và mục tiêu “diệt cộng, cầm Hồ”; thực dân Pháp núp bóng quân Anh với dã tâm cướp nước ta một lần nữa; quốc khố trống rỗng, nạn đói, nạn mù chữ…. đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của chính quyền cách mạng non trẻ, đặt vận nước vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

Trước tình thế đó, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều quyết sách thể hiện tư duy nhạy bén, sáng tạo và tầm nhìn chiến lược, như: Cải tổ Ủy ban giải phóng dân tộc thành Chính phủ lâm thời; công khai danh sách các thành viên Chính phủ lâm thời trước khi Vua Bảo Đại thoái vị; ra mắt Chính phủ lâm thời, công bố Tuyên ngôn độc lập trước khi quân đồng minh kéo vào; mở rộng, cải tổ Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời; Đảng ta rút vào hoạt động bí mật; xác định kẻ thù chính của cách mạng là thực dân pháp, v.v.. Đây là cơ sở để chúng ta triển khai thực hiện các chính sách, biện pháp cấp bách để củng cố, bảo vệ thành quả cách mạng.

Về đối nội, chúng ta đã có sự điều chỉnh, mở rộng thành phần Chính phủ liên hiệp, chấp thuận một số đại biểu của “Việt quốc”, “Việt cách” tham gia Chính phủ để hạn chế sự chống phá của chúng và sự can thiệp của quân Tưởng vào công việc nội bộ; đồng thời, kiên quyết trừng trị bọn phản quốc dựa vào thế lực bên ngoài để chống phá cách mạng, nhằm ổn định tình hình. Đặt nhiệm vụ diệt “giặc đói”, “giặc dốt” ngang bằng với nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm, coi đây là những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, trước mắt. Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, kêu gọi người tài đức tham gia Chính phủ và chính quyền các cấp; phát động nhiều phong trào hành động cách mạng, như: Đẩy mạnh tăng gia, sản xuất, tiết kiệm; hũ gạo cứu đói; tuần lễ vàng; bình dân học vụ, v.v..

Về đối ngoại, tuy xác định thực dân Pháp là kẻ thù trực tiếp của cách mạng Việt Nam, nhưng chúng ta tạm thời thực hiện chính sách hòa hoãn, cho quân Pháp ra miền Bắc nhằm tránh cùng một lúc phải đấu tranh với nhiều kẻ thù, bảo toàn lực lượng, củng cố chính quyền cách mạng và sớm gạt quân Tưởng, loại bỏ tay sai của chúng ra khỏi đất nước. Thực hiện chính sách Hoa - Việt thân thiện và những nhượng bộ nhất định với quân Tưởng, nhưng tỉnh táo không mắc mưu khiêu khích và âm mưu đảo chính của chúng.

Giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay

Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và giữ vững thành cách mạng tháng Tám năm 1945 được Đảng ta vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong suốt quát trình đấu tranh cách mạng, nhất là ở những giai đoạn, thời điểm lịch sử có tính chất bước ngoặt; trở thành nhân tố quan trọng, quyết định thắng lợi hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thực hiện nhiệm vụ quốc tế, tiến hành chiến tranh bảo vệ biên giới của Tổ quốc, đưa cả nước vững bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vận dụng bài học đó trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo tình hình tác động đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tỉnh táo, linh hoạt, sáng tạo để nhận định, đánh giá tình hình thế giới, khu vực, trong nước; kết hợp dự báo chiến lược với dự báo ngắn hạn về xu hướng vận động của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…. nhằm nắm vững chủ động chiến lược. Phân tích khách quan, khoa học xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển của thế giới và cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế đất nước gắn với nắm vững xu hướng điều chỉnh quan hệ chiến lược của các nước lớn; diễn biến tình hình các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, xung đột vũ trang, bất ổn, các yếu tố đe dọa an ninh truyền thống, phi truyền thống, nhất là an ninh, an toàn không gian mạng, khủng bố, tội phạm, thiên tai, dịch bệnh, v.v.. Linh hoạt nhận định và dự báo đúng xu hướng vận động của đối tác, đối tượng và sự chuyển hóa giữa chúng trong từng đối tác, đối tượng cụ thể, theo phương châm thêm bạn, bớt thù, tạo thời cơ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Đồng thời, chủ động nghiên cứu, dự báo âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các nguy cơ đe dọa đến mục tiêu, nội dung nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trên cơ sở đó, nhận định, đánh giá những thời cơ, vận hội và trở ngại, thách thức, khó khăn trực tiếp tác động đến thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

 

Mít tinh Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội (19/8/1945). Ảnh tư liệu

Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Không ngừng củng cố, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện nghiêm chủ trương, quan điểm bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Kết hợp chặt chẽ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng… với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các chiến lược khác đã được Trung ương Đảng và Bộ Chính trị ban hành. Tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách kết hợp giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh và tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Gắn kết vận dụng kết quả tổng kết Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với triển khai thực hiện quan điểm về bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, xây dựng “thế trận lòng dân”… trong hoạch định, chủ trương, đường lối và ban hành chính sách, pháp luật về bảo vệ Tổ quốc.

Triển khai quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo trong cuốn sách "Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Cuốn sách là tài liệu quý, thể hiện sự am hiểu sâu sắc, tư duy ở tầm chiến lược của người đứng đầu Đảng ta về đường lối quân sự, quốc phòng Việt Nam; trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật quân sự Việt Nam và bằng nhãn quan chính trị sắc bén, những kinh nghiệm phong phú trong thực tiễn cách mạng. Những quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư là định hướng quan trọng để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, đồng thời thể hiện sự lãnh đạo sâu sát, toàn diện đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, xứng đáng là thanh bảo kiếm sắc bén, là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Thứ ba, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại trong củng cố, bảo vệ thành tựu sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, của cả hệ thống chính trị; kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế và khơi dậy khát vọng phát triển đất nước,… tạo tiềm lực, sức mạnh tổng hợp cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Gắn tăng cường, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân nhân, thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” với xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp. Xây dựng khu vực phòng thủ và phòng thủ dân sự, bảo đảm mỗi xã là một căn cứ chiến đấu, mỗi huyện, tỉnh là một khu vực phòng thủ vững chắc và “có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh tại các khu vực phòng thủ….; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước”(3). Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng hoạt động đối ngoại nói chung và đối ngoại quốc phòng nói riêng gắn với xử lý khéo léo mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng theo đúng tinh thần chỉ đạo: “Không ngừng đổi mới, sáng tạo trên cơ sở vận dụng nhuần nhuyễn bài học “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt về phương pháp, sách lược”(4) của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhằm phát huy vị trí địa chiến lược và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước trong bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc “từ sớm, từ xa”.

Đồng thời, không ngừng củng cố, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; khơi dậy khát vọng cống hiến, đổi mới, sáng tạo; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc… để mỗi người dân thực là chủ thể tích cực, chủ động trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.

Nguồn: Báo điện tử Khánh Hòa

 

[Đăng ngày 05/06/2023]
Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 21/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp
nq27tw.pdf
[Đăng ngày 19/05/2023]

Luôn thấmLuôn thấm nhuần lời dạy của Bác nhuần lời dạy của Bác

 

Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài, kiệt xuất của dân tộc, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, danh nhân văn hóa của thế giới. Tuy Người đã đi xa nhưng trong lòng mỗi người dân Việt Nam, hình ảnh vị cha già kính yêu của dân tộc luôn trường tồn. Cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất của dân tộc, nhân loại và thời đại, là sự thể hiện nhân cách cao cả của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng.

Kỷ niệm 133 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong không khí đất nước vừa tròn 48 năm mừng ngày giải phóng, trải qua quá trình không ngừng đổi mới, phát triển và đạt được những thành tựu to lớn, chúng ta càng thêm kính yêu và biết ơn công lao trời biển của Bác Hồ - người đã dành trọn 79 mùa xuân hiến dâng cho cách mạng, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa Mác - Lênin như kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và Người luôn nhấn mạnh: “Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch của đất nước sau gần 37 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là minh chứng sinh động khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng; khẳng định sự đúng đắn về đường lối cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra và chính trong quá trình vận động của cách mạng, tư tưởng, đường lối đó ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện, trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ để lại cho dân tộc ta một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, mà còn để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản cao quý, đó là tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức cao đẹp, suốt đời hy sinh phấn đấu quên mình cho đất nước và hạnh phúc của nhân dân. Kỷ niệm 133 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta không chỉ ôn lại để tự hào, để tưởng nhớ đến công lao của Người, mà còn là dịp mỗi người nhìn lại mình để thấy rõ hơn sự cần thiết phải “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Học tập Bác, chúng ta học từ những điều giản dị nhất, học về đạo đức trong sáng, cách đối nhân xử thế, ứng xử với bạn bè, đồng chí, với người thân, với cán bộ, nhân dân; học đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, lối sống giản dị, khiêm tốn…

Dịp kỷ niệm sinh nhật Bác năm nay, Khánh Hòa có nhiều niềm vui để báo công với Bác. Quý I/2023, tỉnh tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng GRDP, với mức tăng 9,07%; các chỉ số PCI, PAPI, chỉ số cải cách hành chính đều tăng vượt bậc; nhiều công trình ý nghĩa được hoàn thành, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của người dân. Toàn tỉnh đang nêu cao tinh thần quyết tâm hiện thực hóa mục tiêu đưa Khánh Hòa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030 và nhiều mục tiêu khác về xây dựng và phát triển tỉnh Khánh Hòa theo tinh thần Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị. Mỗi cán bộ, đảng viên đều nhận thức hành động, việc làm của mình đều phải hướng đến mục đích cuối cùng là vì nhân dân, qua đó nỗ lực phấn đấu, khơi dậy khát vọng xây dựng quê hương Khánh Hòa ngày càng phát triển, giàu đẹp.

Tháng Năm, nhớ về Bác, chúng ta càng thêm thấm nhuần từng lời dạy của Người về công tác xây dựng Đảng, những bài học giản dị về đạo đức cách mạng, về nhân cách, lối sống… Để từ đó không ngừng rèn luyện, làm cho mình ngày càng hoàn thiện hơn, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng hơn với niềm tin yêu, kỳ vọng của nhân dân.

Nguồn: Báo điện tử Khánh Hòa

[Đăng ngày 24/02/2023]

KỶ NIỆM 93 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA (24-2-1930 - 24-2-2023) Tự hào chặng đường vẻ vang

Ngày 24-2-1930, với quyết định của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo đó, hệ thống tổ chức Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ở Khánh Hòa chuyển thành tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, ngày 24-2-1930 là Ngày thành lập Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa. Trong suốt 93 năm xây dựng, trưởng thành, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo phong trào cách mạng của tỉnh đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; đoàn kết, năng động, sáng tạo, phát huy tiềm năng, thế mạnh của tỉnh để vươn lên trong công cuộc đổi mới, xây dựng quê hương Khánh Hòa ngày càng giàu đẹp.

 

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, phong trào cách mạng của Khánh Hòa từng bước phát triển và giành được những thắng lợi vẻ vang, hòa chung vào những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ cuộc biểu tình lịch sử ngày 16-7-1930 tại Tân Định (Ninh Hòa), Đảng bộ tỉnh với đội ngũ cán bộ cách mạng kiên trung đã tổ chức, lãnh đạo phong trào cách mạng của tỉnh đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tại Nha Trang ngày 19-8-1945 đánh dấu thắng lợi của cuộc đấu tranh trong 15 năm. Ngay sau đó, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo cuộc chiến đấu bao vây quân Pháp tại Mặt trận Nha Trang trong 101 ngày đêm nhằm bảo vệ con đường chi viện cho miền Nam. Đảng bộ và quân, dân trong tỉnh đã đồng tâm, hiệp lực, nêu cao ý chí tự lực tự cường, sẵn sàng hy sinh, chịu đựng gian khổ tham gia cuộc chiến tranh nhân dân trên khắp địa bàn tỉnh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Ngày 2-4-1975, Khánh Hòa được giải phóng, là mốc son sáng ngời trong lịch sử đấu tranh cách mạng của tỉnh, góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng mùa xuân năm 1975, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ xây dựng và phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.

Từ những đảng viên và chi bộ đầu tiên ở Nha Trang, Tân Định, đến nay, Đảng bộ tỉnh có 45.239 đảng viên, 686 tổ chức cơ sở đảng (259 đảng bộ cơ sở, 427 chi bộ cơ sở), 15 đảng bộ trực thuộc. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị luôn được Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quan tâm. Công tác chính trị, tư tưởng được chú trọng đổi mới cả về hình thức và phương pháp tổ chức, chất lượng và hiệu quả được nâng lên, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng bộ tỉnh, sự đồng thuận trong xã hội. Đảng bộ tỉnh luôn quan tâm việc củng cố kiện toàn tổ chức đảng, phát triển đảng viên gắn với xây dựng hệ thống chính trị các cấp. Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Trung ương, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã được triển khai đồng bộ, hiệu quả, qua đó góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị trong tỉnh và xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.


Với tinh thần đoàn kết, thống nhất, quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng bộ tỉnh, sự nỗ lực của cán bộ, đảng viên và sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân, Khánh Hòa đã thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong từng thời kỳ cách mạng. Tỉnh đang từng bước trở thành một trong những trung tâm kinh tế và trung tâm du lịch lớn của cả nước. Đến cuối năm 2022, Khánh Hòa là tỉnh có tốc độ tăng GRDP cao nhất cả nước (20,7%), GRDP bình quân đầu người đạt 76,54 triệu đồng, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1.600 triệu USD, thu ngân sách nhà nước đạt 16.016 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư phát triển xã hội đạt 61.978 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực phi nông nghiệp, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp; phát triển các ngành dịch vụ có hàm lượng tri thức và công nghệ cao; thu nhập bình quân đầu người tăng; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao; chất lượng giáo dục - đào tạo tăng lên, khoa học - công nghệ được quan tâm; công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, di tích lịch sử được tăng cường; triển khai tốt nhiệm vụ xây dựng, củng cố các tiềm lực trong khu vực phòng thủ tỉnh, bảo đảm hài hòa phát triển kinh tế đi đôi với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh.


Hiện nay, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh đang nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết số 09 ngày 28-1-2022 của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với mục tiêu: “Khánh Hòa là thành phố trực thuộc Trung ương trên cơ sở phát huy cao độ tiềm năng và lợi thế về biển, là đô thị thông minh, bền vững, bản sắc và kết nối quốc tế; là trung tâm dịch vụ, du lịch biển quốc tế; là một cực tăng trưởng, trung tâm của khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và cả nước về kinh tế biển, công nghiệp công nghệ cao, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, đào tạo nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe chất lượng cao; là nơi nhân dân có mức sống cao, hiền hòa và hạnh phúc; tổ chức đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo được bảo đảm vững chắc”. Đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân trong tỉnh.


Để thực hiện mục tiêu trên đòi hỏi toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh phải “khơi dậy và phát huy mạnh mẽ truyền thống cách mạng, tinh thần chủ động, sáng tạo, ý thức tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân”. Kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng bộ tỉnh, 370 năm xây dựng và phát triển tỉnh Khánh Hòa, Tỉnh ủy triển khai học tập chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam gắn với khát vọng xây dựng tỉnh Khánh Hòa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030” nhằm kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của tỉnh. Thông qua học tập chuyên đề, đội ngũ cán bộ, đảng viên tiếp tục nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, đạo đức cách mạng, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám vượt qua thách thức, khó khăn để hoàn thành mục tiêu mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh đã đặt ra.

Nguồn: Báo điện tử Khánh Hòa

[Đăng ngày 13/09/2022]

Tự hào 77 mùa thu độc lập!

77 năm đã trôi qua, mỗi dịp thu về, người dân Việt Nam lại bồi hồi nhớ lại giờ phút thiêng liêng tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhớ về mùa thu năm ấy, chúng ta càng thêm tự hào về chặng đường vẻ vang 77 năm qua của đất nước.

 

Sau cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi, ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong giờ phút thiêng liêng ấy, hàng triệu trái tim người Việt Nam như vỡ òa hạnh phúc vì “Nước Việt Nam từ máu lửa” đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ đây trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình, đoàn kết xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

“Hỡi đồng bào cả nước,”…, “Tôi nói đồng bào nghe rõ không”? Lời Bác gọi như lời hiệu triệu của non sông đất nước, thấm đẫm vào trái tim thế hệ người dân Việt Nam. Ngày 2/9/1945 đã trở thành cột mốc huy hoàng của dân tộc Việt Nam. Lần đầu tiên người dân Việt Nam có quyền ngẩng cao đầu, tự hào trở thành công dân của một nước tự do và độc lập.  

77 mùa thu đã qua đi nhưng mỗi khi đến ngày Quốc khánh, trái tim mỗi người dân đất Việt lại dâng trào cảm xúc như được sống lại những ngày đầu nước cộng hòa non trẻ mới ra đời. Trong nắng thu vàng, trên Quảng trường Ba Đình lịch sử, hình ảnh giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vẫn như còn hiển hiện. Nhớ về Bác Hồ muôn vàn kính yêu, chúng ta càng tự hào về những năm tháng hào hùng của mùa Thu năm 1945. Tinh thần Cách mạng Tháng Tám sẽ còn mãi toả sáng, là nguồn sức mạnh to lớn của thời đại mới, là động lực và chỉ dẫn quan trọng cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Sau 77 năm, bản Tuyên ngôn Độc lập vẫn còn nguyên giá trị, khẳng định ý chí, khát vọng của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Bản Tuyên ngôn Độc lập ngắn gọn nhưng chứa đựng những nội dung bất hủ, không chỉ có giá trị lịch sử đối với dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam, đưa đất nước vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, giữ vững độc lập chủ quyền, xây dựng và phát triển đất nước.

 77 năm qua, với bản lĩnh kiên cường và truyền thống yêu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược với chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, kết thúc bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; tiếp đó là các cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc.

 Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta cũng đã vượt qua bao khó khăn, thách thức, với sự hỗ trợ, giúp đỡ quý báu, hiệu quả của bạn bè quốc tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực: Quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng nhanh; từ một nước nghèo, kém phát triển Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các mục tiêu Thiên niên kỷ, nhất là về giảm nghèo, bình đẳng giới, y tế, giáo dục...

Đặc biệt, sau 36 năm đổi mới (1986 - 2022) Việt Nam đã đạt được những thành tự to lớn, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định; đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Những thành tựu có ý nghĩa lịch sử này chính là minh chứng cho lời thề độc lập năm 1945 và cũng khẳng định tinh thần đoàn kết, ý chí bất khuất và khát vọng phát triển vươn lên của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh.

 Kỷ niệm 77 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 diễn ra trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Nhớ về mùa Thu độc lập năm ấy, chúng ta càng nỗ lực chung tay thực hiện đường lối đổi mới do Đảng đã đề ra, hướng tới mục tiêu: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 

 Thu sang, khi trên các con đường, tuyến phố ở Thủ đô Hà Nội cũng như ở các địa phương rực rỡ cờ hoa, băng rôn, khẩu hiệu chào mừng Quốc khánh, niềm hân hoan, phấn khởi lại rộn ràng trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam. Lời Tuyên ngôn Độc lập năm xưa như vẫn còn đây, vang vọng khắp non sông, mãi là niềm tự hào, là lời kêu gọi chúng ta tiếp tục đoàn kết một lòng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giữ vững độc lập, chủ quyền, xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc!

Nguồn: Báo điện tử Khánh Hòa

[Đăng ngày 01/09/2022]

Huyện Vạn Ninh tổ chức Lễ viếng, đặt vòng hoa tại Nghĩa trang Liệt sĩ Ninh Hòa – Vạn Ninh

 

Nhân kỷ niệm 77 năm Cách mạng Tháng 8 và Quốc khánh 2-9, sáng 30-8, Huyện ủy – HĐND – UBND – UBMTTQ Việt Nam huyện Vạn Ninh tổ chức Lễ viếng, đặt vòng hoa và dâng hương tại Nghĩa trang Liệt sĩ Ninh Hòa – Vạn Ninh.


Tại buổi lễ, các đoàn đại biểu của Huyện ủy do đồng chí Bùi Văn Cường – Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện và đồng chí Nguyễn Thái Nguyên – Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy dẫn đầu; đoàn đại biểu của HĐND – UBND do đồng chí Đàm Ngọc Quang – Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện dẫn đầu; đoàn đại biểu của UBMTTQVN và các đoàn thể của huyện do đồng chí Huỳnh Ngọc Thơ - Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Trưởng Ban Dân vận Huyện ủy, Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam dẫn đầu; đoàn đại biểu Lực lượng Vũ trang của huyện và đoàn đại biểu cán bộ và nhân dân các xã, thị trấn đã viếng, đặt vòng hoa, dâng hương và dành phút mặc niệm tưởng nhớ công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các anh hùng Liệt sĩ trong đó có hơn 800 người con ưu tú của quê hương Vạn Ninh đã anh dũng hi sinh vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Nối tiếp truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc, thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân huyện Vạn Ninh đã và đang ra sức phấn đấu, nỗ lực vượt các khó khăn, thách thức để thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng quê hương Vạn Ninh ngày càng phát triển. Sau lễ viếng, đặt vòng hoa và dâng hương, các đại biểu đã đến thắp nén nhang tri ân trên từng phần mộ của các liệt sĩ. 
Cũng trong sáng 30-8, Huyện ủy – HĐND – UBND – UBMTTQ Việt Nam huyện Vạn Ninh tổ chức Lễ viếng, đặt vòng hoa và dâng hương tại Đài tưởng niệm Liệt sĩ huyện Vạn Ninh.

Nguồn Cổng điện tử Vạn Ninh

 

[Đăng ngày 12/07/2021]

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để thực hành dân vận phải xây dựng được đội ngũ cán bộ dân vận “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ thật thà nhúng tay vào việc” (1).

Trong suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước, Đảng ta luôn đề ra đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức vận động nhân dân thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị đề ra. Trong đó, Đảng luôn đề cao vai trò của công tác dân vận, đồng thời chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận.

Công tác dân vận của Đảng được hiểu là toàn bộ các hoạt động của Đảng nhằm tuyên truyền, vận động, thu hút, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và để chăm lo, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để thực hành dân vận phải xây dựng được đội ngũ cán bộ dân vận “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ thật thà nhúng tay vào việc”. Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác dân vận hiện nay, Đảng ta chỉ rõ công tác dân vận là của cả hệ thống chính trị, trong đó Đảng lãnh đạo, Nhà nước tổ chức thực hiện, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm tham mưu và nòng cốt. Để hiện thực hóa công việc đó, phải chú trọng chăm lo xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân vận đủ trình độ, năng lực, đạo đức, uy tín, nhiệt tình và kỹ năng vận động, thuyết phục nhân dân.

Kỹ năng được hiểu là năng lực khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết kiến thức, kinh nghiệm nhằm đạt được kết quả mong đợi. Trong kỹ năng bao gồm: kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng sống, kỹ năng làm việc và uy tín của cán bộ. Theo đó, cán bộ làm công tác dân vận phải xây dựng tổng hợp được các kỹ năng để đem lại hiệu quả trong công việc. Cán bộ làm công tác dân vận phải thấu suốt tư tưởng chính trị, đạo đức trong sáng, có chuyên môn, kinh nghiệm sống và nhiệt huyết với công việc; phải thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nghĩa là cán bộ đó phải có bản lĩnh, hiểu biết, nhiệt tình với công việc; là người có uy tín, có khả năng thuyết phục, vận động được mọi người làm theo mình. Thực tế thời gian qua cho thấy, nhận thức của một số cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên về vai trò công tác dân vận còn có những hạn chế nhất định. Vậy nên trong chỉ đạo sắp xếp tổ chức, cán bộ làm công tác dân vận có lúc chưa phù hợp, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác dân vận ít được quan tâm. Bên cạnh đó trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, uy tín, kỹ năng của một số cán bộ dân vận còn kém. Việc nắm, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là địa bàn phức tạp của một số cán bộ dân vận thiếu kỹ năng nên xử lý chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Từ đó dẫn đến chất lượng, hiệu quả công tác dân vận chưa được như kỳ vọng.

Để nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các cấp ủy đảng cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận có những kỹ năng sau:

Trước hết, cán bộ dân vận phải luôn nâng cao trình độ nhận thức, hiểu biết của mình để vận dụng sát đúng nghị quyết của các cấp uỷ đảng vào thực tiễn. Đây là yêu cầu rất quan trọng, bởi cán bộ làm công tác dân vận là người tuyên truyền, vận động, thuyết phục quần chúng nhân dân hiểu về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, quyết sách của chính quyền. Cán bộ dân vận đi tuyên truyền, vận động, thuyết phục quần chúng nhân dân, đồng thời cũng tham mưu cho cấp ủy đảng để ban hành nghị quyết sát đúng với yêu cầu thực tiễn.

Hai là, cán bộ làm công tác dân vận cần “nhìn cho kỹ, nghĩ cho chín” để xem xét, phán đoán, vận dụng đúng nghị quyết của Đảng, quyết định của chính quyền vào thực tiễn đời sống chính trị, xã hội để vận động, thuyết phục nhân dân thực hiện. Công việc này đòi hỏi người cán bộ làm công tác dân vận phải nhanh nhạy, sâu sát nhân dân, thường xuyên quan tâm chú đến những diễn biến tốt, xấu nảy sinh trong đời sống xã hội. Qua đó có hình thức, phương pháp, cách thức vận động từng đối tượng phù hợp nhằm đem lại hiệu quả trong công tác vận động nhân dân. Thông qua đó nhằm ổn định tư tưởng, tạo sự đồng thuận xã hội góp phần nâng cao đời sống nhân dân.

Ba là, cán bộ làm công tác dân vận cần có kỹ năng lắng nghe, thấu hiểu những kiến nghị của quần chúng nhân dân. Thông qua sự sâu sát, cảm thông, chia sẻ, cán bộ nghe phản ánh những kiến nghị, đề xuất bảo đảm lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân để có phương án phối hợp giải quyết kịp thời, hợp tình, có lý. Một mặt, cán bộ dân vận lắng nghe nhân dân phản ánh về những chủ trương của Đảng, quyết sách của chính quyền; mặt khác cán bộ phải lĩnh hội và có trách nhiệm phản ánh lại với các cấp uỷ đảng, chính quyền để có điều chỉnh kịp thời. Khi chủ trương đúng thì vận động nhân dân từng bước, làm cho họ thấu hiểu, tích cực thực hiện. Việc nào chưa phù hợp thì tham mưu để cấp uỷ đảng, chính quyền từng bước điều chỉnh sát thực tế hơn.

Bốn là, cán bộ dân vận phải gần gũi, sâu sát “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng người” để hiểu, vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Để làm được công việc này đòi hỏi cán bộ dân vận phải nhiệt tình, tâm huyết với công việc, không quản ngại khó khăn, thường xuyên đi đến tận nơi để trao đổi, chia sẻ với nhân dân. Đặc biệt là với người dân ở vùng sâu, xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo để vận động, thuyết phục, lôi kéo nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của chính quyền.

Năm là, kỹ năng thuyết phục nhân dân của cán bộ dân vận, hiểu từng đối tượng mỗi người dân để nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin. Tùy từng lĩnh vực công tác của cán bộ dân vận mà có các hình thức tuyên truyền, vận động nhân dân phù hợp. Cán bộ dân vận sau khi nắm nghị quyết, tùy từng đối tượng nhân dân mà có cách tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân nghe, làm theo thì đó mới đem lại kết quả.

Sáu là, việc nêu gương của cán bộ đóng vai trò quyết định đến hiệu quả công tác dân vận. Nghĩa là cán bộ làm công tác dân vận nói đi đôi với làm, giải quyết, xử lý mọi việc có lý, có tình thì nhân dân mới tin. Quần chúng nhân dân là số đông trong xã hội, mỗi người có những suy nghĩ, điều kiện, môi trường, hoàn cảnh khác nhau. Để nhân dân hiểu, tin làm theo cán bộ làm công tác dân vận luôn là những người có uy tín để nhân dân gửi gắm niềm tin. Thông qua thực tiễn công tác, sinh hoạt, đạo đức lối sống của cán bộ cũng như gia đình hoặc nêu gương tốt để thuyết phục, vận động nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy định địa phương.

Có thể thấy, công tác dân vận có vai trò rất quan trọng để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng. Cán bộ dân vận đóng vai trò là “cầu nối” đưa chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Do đó, các cấp ủy đảng phải lựa chọn đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ có trình độ, bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh, có uy tín, sức khỏe, nhiệt tình yêu nghề, cảm thông chia sẻ với mọi người trong xã hội. Trước đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, chú trọng xây dựng kỹ năng công tác dân vận cho đội ngũ cán bộ là yêu cầu rất cần thiết hiện nay.
Nguồn Cổng điện tử Tỉnh ủy

[Đăng ngày 29/06/2021]

Xây dựng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên theo Tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh. Đến năm 2030 xây dựng một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu này, một trong những biện pháp quan trọng là xây dựng đội ngũ chính ủy, chính trị viên các cấp trong Quân đội làm nòng cốt với phẩm chất chính trị, đạo đức, phương pháp, tác phong công tác theo Tư tưởng Hồ Chí Minh.

 

Ảnh minh họa.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về
 chính ủy, chính trị viên trong Quân đội

Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong những tổ chức mầm mống của lực lượng vũ trang cách mạng. Người nhấn mạnh: “Về mặt chính trị, cấp nào cũng có một người chính trị phái viên do đoàn thể cách mạng chọn trong bộ đội ấy hoặc phái người ngoài đến làm” (1). Từ đó đến nay, ở các đơn vị lực lượng vũ trang cách mạng (lúc đầu từ cấp trung đội, sau là từ cấp đại đội trở lên) bên cạnh người chỉ huy quân sự bao giờ cũng có người cán bộ chính trị - người tiêu biểu cho đường lối chính trị, quân sự của Đảng, được tổ chức đảng lựa chọn và giao nhiệm vụ chỉ đạo, trực tiếp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, chịu trách nhiệm chủ yếu trước Đảng về bản chất cách mạng của đơn vị vũ trang mà mình được phân công đảm nhiệm. Là đại biểu của Đảng bên cạnh người chỉ huy, hơn ai hết, họ là người giữ nghiêm kỷ luật Đảng, nắm vững và thực hiện tốt các nguyên tắc của Đảng, thật sự tiêu biểu cho sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức đảng và trong toàn đơn vị.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính ủy, chính trị viên phải có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh. Người chỉ rõ: “Kỷ luật phải được thi hành từ trên đến dưới. Trách nhiệm của người chỉ huy quân sự và người chính trị viên phải định rõ ràng”(2). Theo đó, chính ủy, chính trị viên không chỉ chấp hành nghiêm túc và triệt để mọi đường lối, chủ trương, nguyên tắc của Đảng, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của quân đội, mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, mà phải thường xuyên chăm lo củng cố, giữ gìn và tăng cường đoàn kết, kỷ luật trong nội bộ đơn vị, đoàn kết quân dân. Mỗi chính uỷ, chính trị viên phải là hạt nhân, là trung tâm xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong cơ quan, đơn vị. 

Chính ủy, chính trị viên cũng cần ham học hỏi, cầu tiến bộ. Bác Hồ cho rằng: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”(3). Sự nỗ lực học tập vươn lên là một đòi hỏi tất yếu khách quan, phù hợp quy luật phát triển của xã hội. Với người cán bộ chính trị, chính uỷ, chính trị viên, người làm công tác lãnh đạo, công tác giáo dục, xây dựng “hướng dẫn, dìu dắt quần chúng trên con đường đấu tranh” càng phải tích cực học tập phấn đấu để không ngừng tiến bộ.

Là người lãnh đạo, quản lý, chỉ huy hằng ngày tiếp xúc với bộ đội, chính uỷ, chính trị viên phải trong sáng, gương mẫu về đạo đức lối sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Tư cách của chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên tốt, thì bộ đội ấy tốt. Người chính trị viên không làm tròn nhiệm vụ, thì bộ đội ấy không tốt”(4). Chính vì vậy, Người luôn yêu cầu người cán bộ chính trị, chính uỷ, chính trị viên phải biết đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của Nhân dân, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân; sống có hoài bão, có lý tưởng, có niềm tin yêu mãnh liệt đối với bộ đội và Nhân dân; có lối sống trong sáng, lành mạnh, thẳng thắn, trung thực, khiêm tốn, giản dị với mọi người; kiên quyết đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, để luôn luôn xứng đáng với lời dạy: “Chính trị viên phải làm người kiểu mẫu trong mọi việc”(5).

Nhiệm vụ và giải pháp

Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới, khu vực, trong nước có những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch ra sức dùng mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc nhằm lung lạc niềm tin, lý tưởng, ý chí chiến đấu và lòng trung thành của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Xuất phát từ những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ vị trí, vai trò của chính uỷ, chính trị viên và yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, việc thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên là một tất yếu khách quan. Trong thời gian tới, các cấp ủy, tổ chức đảng trong Quân đội cần tập trung làm tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ chính ủy, chính trị viên, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn. Chú trọng làm tốt việc giáo dục ý thức trách nhiệm, phổ biến, tuyên truyền các chuẩn mực đạo đức cách mạng theo quan điểm, Tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ chính uỷ, chính trị viên, làm cơ sở cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, đồng thời làm cơ sở để tuyên truyền, giáo dục, đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ trong cơ quan, đơn vị.

Hai là, quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện tốt nội dung quan điểm về rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Gắn chặt chẽ giữa bồi dưỡng đạo đức cách mạng của chính uỷ, chính trị viên với việc xây dựng bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực toàn diện, rèn luyện phương pháp, tác phong công tác khoa học, dân chủ, sâu sát bộ đội, gắn bó với Nhân dân, lời nói đi đôi với việc làm.

Ba là, làm tốt công tác kiểm tra sơ tổng kết, đánh giá đúng thực trạng kết quả bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên, chỉ rõ nguyên nhân, kinh nghiệm, làm tốt công tác biểu dương, khen thưởng, kịp thời nhắc nhở, xử ký các trường hợp vi phạm phẩm chất đạo đức cách mạng.

Bốn là, mỗi chính uỷ, chính trị viên cần nêu cao ý thức, trách nhiệm, tân tụy với công việc, thực sự là tấm gương mẫu mực cả trong chiến đấu cũng như trong lao động và học tập, công tác. Phải thực sự là tấm gương, là điểm khởi phát, là chỗ dựa đáng tin cậy để đấu tranh khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, kịp thời ngăn chặn sự tha hóa về đạo đức, lối sống trong đơn vị và ngoài xã hội.

----------

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2011, tập 3, tr.502.

(2), (4), (5) Sđd, tập 5, tr.485, 484, 485.

(3) Sđd, tập 10, tr.377

 

Nguồn: Tỉnh ủy Khánh Hòa

 

[Đăng ngày 29/06/2021]

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào đến Hà Nội bắt đầu thăm hữu nghị chính thức Việt Nam

 

Sáng 28-6, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Thoong-lun Xi-xu-lít và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Đảng và Nhà nước Lào đã đến Thủ đô Hà Nội, bắt đầu chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam, theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Phu nhân, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân.

 

Đồng chí Võ Văn Thưởng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thoong-lun Xi-xu-lít và Phu nhân tại sân bay Quốc tế Nội Bài ở Thủ đô Hà Nội

 Đây là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của đồng chí Thoong-lun Xi-xu-lít trên cương vị Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào nhiệm kỳ 2021-2026. Chuyến thăm góp phần khẳng định đường lối đối ngoại nhất quán của cả hai nước, đặc biệt coi trọng giữ gìn và không ngừng phát triển quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

Đúng 8h15', chuyên cơ chở Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thoong-lun Xi-xu-lít và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Đảng và Nhà nước Lào hạ cánh xuống sân bay quốc tế Nội Bài.

Sân bay quốc tế Nội Bài trang trí Quốc kỳ hai nước cùng khẩu hiệu chào mừng bằng tiếng Việt và tiếng Lào: "Nhiệt liệt chào mừng Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Thoong-lun Xi-xu-lít và Phu nhân thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam".

Các đồng chí: Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng; Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Lê Minh Hưng; Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Lê Hoài Trung; Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Lê Khánh Hải; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chu Ngọc Anh; Phó Trưởng ban Thường trực Ban Đối ngoại Trung ương Nguyễn Huy Tăng; Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Quốc Dũng; Đại sứ Việt Nam tại Lào Nguyễn Bá Hùng và Đại sứ Lào tại Việt Nam Xẻng-phết Hùng-bun-nhương đã ra tận chân cầu thang máy bay đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Thoong-lun Xi-xu-lít và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Lào.

 

Theo chương trình, Lễ đón chính thức Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Thoong-lun Xi-xu-lít cùng Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Lào sẽ được tổ chức trọng thể tại Phủ Chủ tịch theo nghi thức cao nhất dành cho nguyên thủ quốc gia.

Tiếp đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch Lào Thoong-lun Xi-xu-lít sẽ tiến hành hội đàm với lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước ta và chứng kiến Lễ ký các văn kiện hợp tác.

Chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam lần này của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thoong-lun Xi-xu-lít có ý nghĩa rất đặc biệt, tiếp tục khẳng định tình đoàn kết, gắn bó, tin cậy, thủy chung, trong sáng, trước sau như một của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào. Đồng thời là dịp để hai bên tiếp tục trao đổi kinh nghiệm trong phát triển, các biện pháp thúc đẩy thực hiện có hiệu quả các thỏa thuận cấp cao hai Đảng, hai nước năm 2021 và những năm tiếp theo.

Nguồn: TTXVN

 

[Đăng ngày 28/06/2021]

Vĩnh Phúc: Giải quyết việc làm mới cho trên 6.800 lao động

 

Mặc dù chịu tác động của dịch Covid-19, nhưng cấp ủy, chính quyền và ngành chức năng trong tỉnh Vĩnh Phúc vẫn nỗ lực thực hiện các giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người lao động. Trong 6 tháng đầu năm 2021, toàn tỉnh giải quyết việc làm cho hơn 6.800 lao động, trong đó đưa 20 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.



Công nhân Công ty Sản xuất phanh Nissin Việt Nam trong giờ làm việc.

Trong đó, tỉnh chỉ đạo ngành Lao động - Thương binh và Xã hội chủ động phối hợp với các doanh nghiệp và các huyện, thành phố đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền chủ trương, chính sách về đào tạo nghề, giải quyết việc làm, giảm nghèo; rà soát, tổng hợp nhu cầu việc làm của người lao động để tư vấn, định hướng đào tạo nghề phù hợp thị trường lao động.

Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh tăng cường tìm hiểu nhu cầu tuyển dụng lao động của doanh nghiệp, ký kết cung ứng lao động cho doanh nghiệp trong các khu công nghiệp; đẩy mạnh công tác thông tin thị trường lao động qua nhiều hình thức; lập danh sách và hướng dẫn lao động thất nghiệp đăng ký học nghề; kết nối, giới thiệu việc làm và liên kết đào tạo xuất khẩu lao động cho người lao động có nhu cầu trên cơ sở vừa kết nối, giới thiệu việc làm hiệu quả vừa bảo đảm các yêu cầu phòng, chống dịch Covid-19.

Trong 6 tháng đầu năm 2021, toàn tỉnh giải quyết việc làm cho hơn 6.800 lao động, trong đó đưa 20 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.

Từ nay đến cuối năm 2021, tỉnh tiếp tục chỉ đạo ngành chức năng và địa phương làm tốt công tác tuyên truyền, tư vấn, hướng nghiệp và đào tạo nghề; gắn đào tạo với giới thiệu việc làm cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo nghề; tăng cường nắm bắt thông tin, nhu cầu tuyển dụng lao động của doanh nghiệp.

Từ đó, có kế hoạch cung ứng lao động, bảo đảm cả về số lượng và chất lượng lao động, nhất là với những doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động số lượng lớn.

 

Nguồn: Cổng thông tin điện tử Tỉnh ủy Khánh Hòa

12


Đang online: 39

Số lượt truy cập: 1068873