[Đăng ngày
05/04/2024]
[Đăng ngày
21/03/2024]
[Đăng ngày
27/02/2024]
[Đăng ngày
27/02/2024]
[Đăng ngày
25/02/2024]
[Đăng ngày
20/02/2024]
[Đăng ngày
25/09/2023]
[Đăng ngày
25/09/2023]
[Đăng ngày
18/09/2023]
Chiến lược phát triển
ngành nghề nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Phát triển ngành nghề
nông thôn hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị; bảo đảm tăng trưởng xanh.
Phát triển kinh tế
nông thôn gắn với mục tiêu nông nghiệp sinh thái
Mục tiêu chung của
Chiến lược là phát triển ngành nghề nông thôn nhằm phát huy tiềm năng của khu
vực nông thôn, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập, tạo công
ăn việc làm và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân; góp phần
bảo vệ môi trường, tôn tạo, giữ gìn cảnh quan, phát huy truyền thống, bản sắc
văn hóa dân tộc; phát triển kinh tế nông thôn gắn với mục tiêu nông nghiệp sinh
thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh.
Mục tiêu phấn đấu đến
năm 2030, tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành nghề nông thôn đạt khoảng 6,0 -
7,0%/năm. Thu nhập bình quân lao động trong các hoạt động ngành nghề nông thôn
gấp 2,5 - 3 lần so với năm 2020.
Thu hút được khoảng 5
triệu lao động thường xuyên trong các hoạt động ngành nghề nông thôn. Giá trị
xuất khẩu các mặt hàng ngành nghề nông thôn đạt trên 6,0 tỷ USD/năm.
Tỷ lệ lao động qua đào
tạo khu vực ngành nghề nông thôn là 80% và tỷ lệ được cấp bằng, chứng chỉ đạt
35%.
Hình thành các vùng
nguyên liệu tập trung, ổn định đáp ứng 70% nhu cầu phát triển ngành nghề nông
thôn.
Tầm nhìn đến năm
2045, ngành nghề nông thôn tiếp tục là hoạt động mang lại thu nhập, tạo
việc làm cho lao động ở nông thôn, góp phần vào tăng trưởng chung của nền kinh
tế quốc dân; phát triển ngành nghề nông thôn theo hướng phát triển bền vững,
thông minh, thân thiện với môi trường, gắn với xây dựng không gian nông thôn
xanh, sạch, đẹp; gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá, lịch sử và truyền
thống của vùng, miền.
Định hướng phát triển
ngành nông nghiệp
Chiến lược đưa
ra định hướng phát triển theo nhóm ngành nghề nông thôn gồm: Nhóm chế
biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản; Nhóm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; Nhóm
xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn; Nhóm sản
xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ
khí nhỏ; Nhóm sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh; Nhóm sản xuất muối; Nhóm
dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn.
Trong đó, đối với
nhóm chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản: Tăng tỷ lệ sử dụng máy móc, thiết
bị và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường
vào sản xuất. Cải tiến quy trình sản xuất theo chuỗi, đảm bảo dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng sức cạnh tranh,
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và hướng tới xuất khẩu.
Đối với nhóm sản xuất
hàng thủ công mỹ nghệ: Tạo các mẫu mã sản phẩm mới phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, phát triển sản xuất theo hướng làm quà
tặng, đồ lưu niệm phục vụ đối tượng khách du lịch. Tăng cường liên kết giữa các
làng nghề thủ công mỹ nghệ, kết hợp các nguyên liệu, vật liệu tạo ra các sản
phẩm mới, độc đáo, có tính nghệ thuật, có khả năng sử dụng cao.
Đối với nhóm xử lý,
chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn: Nâng cao năng
lực các cơ sở xử lý, chế biến tạo ra các loại nguyên liệu mới, phù hợp với xu
hướng phát triển của ngành nghề nông thôn, nhất là sản xuất nguyên liệu tái
chế, thân thiện với môi trường và thay thế cho nguyên liệu nhập khẩu. Hình
thành các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn được cấp chứng chỉ bền vững
gắn với các nhà máy sơ chế, chế biến, sản xuất các sản phẩm ngành nghề nông
thôn, giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu...
Tập trung bảo tồn,
khôi phục các nghề, làng nghề truyền thống
Về định hướng bảo tồn
và phát triển làng nghề: Tập trung bảo
tồn, khôi phục các nghề, làng nghề truyền thống đang có nguy cơ mai một, thất
truyền, gắn với du lịch; xây dựng các kênh phân phối, giới thiệu sản phẩm làng
nghề; ưu tiên thành lập các hội, hiệp hội nghề ở các địa phương, các trung tâm
đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề; hỗ trợ thiết kế mẫu mã, hoàn
thiện sản phẩm, thông tin thị trường phục vụ bảo tồn và phát triển nghề, làng
nghề.
Về thị trường tiêu
thụ sản phẩm, đối với thị trường trong nước: Kết nối tiêu thụ sản phẩm với các đô thị lớn; đa
dạng hoá các loại hình dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng cao; xây
dựng các chương trình du lịch nông thôn, du lịch làng nghề để xuất khẩu tại chỗ
các sản phẩm ngành nghề nông thôn.
Đối với thị trường
xuất khẩu: Đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu vào các thị trường truyền thống
như Trung Quốc, Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…; mở rộng sang các thị trường
tiềm năng khu vực Trung Đông, Mỹ La tinh, châu Phi.
Đa dạng hoạt động
trải nghiệm du lịch làng nghề, du lịch nông thôn
Về bảo vệ môi trường
gắn với phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn, du lịch làng nghề: Khẩn trương di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm
trong khu dân cư vào các cụm công nghiệp, khu sản xuất tập trung; giữ gìn cảnh
quan nông thôn gắn với làng sinh thái, thông minh, bảo đảm xanh, sạch, đẹp và
thân thiện môi trường; triển khai hiệu quả Chương trình phát triển du lịch nông
thôn, du lịch làng nghề trong xây dựng nông thôn mới; đa dạng hóa và nâng cao
chất lượng sản phẩm du lịch; phát huy các giá trị văn hóa truyền thống nông
thôn; đa dạng hoạt động trải nghiệm du lịch làng nghề, du lịch nông thôn.
Nguồn: https://khanhhoa.gov.vn/
[Đăng ngày
17/09/2023]
Quy định mới về hỗ trợ đất sản xuất cho
hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo
Ủy ban Dân tộc vừa ban hành
Thông tư số 02/2023/TT-UBDT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 02/2022/TT-UBDT
hướng dẫn thực hiện một số dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 -
2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025.
Thông tư sửa đổi, bổ sung một số quy
định về hỗ trợ đất sản xuất. Theo đó, Thông tư nêu rõ, đối tượng được hỗ trợ
đất sản xuất gồm:
1. Hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo
sinh sống trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
(DTTS&MN); hộ nghèo dân tộc Kinh sinh sống ở xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK),
thôn ĐBKK vùng đồng bào DTTS&MN sinh sống bằng nghề nông, lâm, ngư nghiệp
chưa có đất sản xuất, có nhu cầu hỗ trợ đất sản xuất thì được chính quyền địa
phương xem xét hỗ trợ trực tiếp bằng đất sản xuất.
2. Hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo
sinh sống trên địa bàn vùng DTTS&MN; hộ nghèo dân tộc Kinh sinh sống ở xã
ĐBKK, thôn ĐBKK vùng đồng bào DTTS&MN sinh sống bằng nghề nông, lâm, ngư
nghiệp chưa có hoặc thiếu trên 50% đất sản xuất theo định mức quy định của từng
địa phương, có nhu cầu chuyển đổi nghề hoặc có nhu cầu hỗ trợ đất sản xuất
nhưng không bố trí được đất sản xuất thì được xem xét, hỗ trợ chuyển đổi nghề.
UBND cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất, điều
kiện thực tế của địa phương để quy định định mức đất sản xuất nhưng không vượt
quá hạn mức giao đất nông nghiệp cho mỗi hộ gia đình, cá nhân theo quy định của
pháp luật về đất đai làm cơ sở xác định hộ gia đình thiếu đất sản xuất.
Nội dung hỗ trợ và cách thức thực hiện
Hỗ trợ trực tiếp bằng đất sản xuất:
Trường hợp địa phương còn quỹ đất có khả năng sản xuất mà không cần phải thực
hiện khai hoang, phục hóa, cải tạo đất, UBND cấp huyện căn cứ quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thực hiện
giao đất sản xuất cho các hộ thuộc đối tượng thụ hưởng chính sách chưa có đất
sản xuất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Trường hợp địa phương còn quỹ đất sản
xuất nhưng phải khai hoang, phục hóa, cải tạo đất để có khả năng sản xuất, UBND
cấp huyện chỉ đạo tổ chức lập và thực hiện dự án khai hoang, phục hóa, cải tạo
đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt để giao đất sản xuất cho các hộ thuộc đối tượng thụ hưởng chính sách
chưa có đất sản xuất theo quy định của pháp luật về đất đai. Mức hỗ trợ từ ngân
sách trung ương để thực hiện dự án khai hoang, phục hóa, cải tạo đất quy định
tại khoản 3 Điều 3 Quyết định số 04/2023/QĐ-TTg.
Các hộ thuộc đối tượng hỗ trợ trực tiếp
đất sản xuất nhưng chính quyền địa phương không bố trí được đất sản xuất,
có nhu cầu vay vốn để tạo quỹ đất sản xuất thì được xem xét vay vốn tín dụng từ
Ngân hàng Chính sách xã hội theo quy định tại các Điều 20, 21, 22, 23, 24 và 25
Nghị định số 28/2022/NĐ-CP và không được hỗ trợ chuyển đổi nghề.
UBND cấp tỉnh chỉ đạo UBND cấp huyện bố
trí ngân sách địa phương và thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
các hộ được hỗ trợ đất sản xuất theo quy định.
Hỗ trợ chuyển đổi nghề
Các hộ thuộc đối tượng quy định được xem
xét, hỗ trợ mua sắm nông cụ, máy móc, làm dịch vụ sản xuất nông nghiệp, chuyển
đổi sang làm các ngành nghề trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất, kinh doanh khác
hoặc hỗ trợ học nghề để chuyển đổi nghề và được vay vốn tín dụng theo quy định
tại các Điều 20, 21, 22, 23, 24 và 25 Nghị định số 28/2022/NĐ-CP.
Căn cứ danh sách các hộ dân được hỗ trợ
chuyển đổi nghề đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, danh sách các hộ dân đăng
ký phương thức hỗ trợ (bằng tiền, hiện vật hoặc học nghề), UBND cấp xã tổng hợp
nhu cầu và phân loại theo từng phương thức thực hiện gửi cơ quan làm công tác
dân tộc cấp huyện chủ trì, phối hợp với cơ quan tài chính cùng cấp tổng hợp,
báo cáo UBND cấp huyện quyết định mức hỗ trợ cho từng hộ dân (mỗi hộ chỉ được
hỗ trợ 01 lần).
Trường hợp các hộ dân nhận hỗ trợ bằng
tiền, UBND cấp xã hướng dẫn các hộ dân tự mua sắm nông cụ, máy móc, làm dịch vụ
sản xuất nông nghiệp, học nghề, chuyển đổi sang làm các ngành nghề trồng trọt,
chăn nuôi, sản xuất kinh doanh khác theo nhu cầu đã đăng ký và thực hiện thanh
quyết toán theo quy định. Trường hợp các hộ đăng ký nhận hỗ trợ bằng hiện vật,
UBND cấp huyện căn cứ nhu cầu, chỉ đạo đơn vị chuyên môn hoặc UBND cấp xã tổ
chức mua sắm theo quy định của pháp luật và thực hiện cấp phát cho các hộ dân.
Trường hợp các hộ đăng ký học nghề, UBND cấp huyện tổng hợp, giao đơn vị chuyên
môn phối hợp với các cơ sở đào tạo hỗ trợ đào tạo nghề cho các hộ dân theo quy
định.
Nguồn: https://khanhhoa.gov.vn/
[Đăng ngày
15/09/2023]
[Đăng ngày
07/09/2023]
[Đăng ngày
25/07/2023]
[Đăng ngày
21/07/2023]
Xã Đại Lãnh: Phối hợp tổ chức hội nghị phổ biến, tuyên truyền Luật Phòng cháy chữa cháy
Sáng ngày 21/7/2023, UBND xã Đại Lãnh phối hợp với Công an tỉnh Khánh Hoà, Công an huyện Vạn Ninh, Công an xã Đại Lãnh tổ chức hội nghị truyền truyền, phổ biến pháp luật về Phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn xã Đại Lãnh năm 2023.
Về tham dự hội nghị có ông: Nguyễn Lê Ngọc Toàn, Chủ tịch UBND xã Đại Lãnh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, lãnh đạo chính quyền địa phương và hơn 100 đại biểu là cán bộ là Chủ tịch, Phó Chủ tịch các đoàn thể chính trị, Công chức, người hoạt đông không chuyên trách, lực lượng dân quân tự vệ, Ban nhân dân 6 thôn, Công an bán chuyên trách và trên 30 hộ gia đình có nhà ở kết hợp SXKD.
Ông Thiếu tá Nguyễn Trường Kế, Đội phó đội cảnh sát Phòng cháy chữa cháy Khu vực 3 trình bày những nội dung cơ bản của Luật phòng cháy, chữa cháy và Tập huấn công tác thực hành về Phòng cháy, chữa cháy toàn dân cho toàn thể hội nghị.
Thông qua hội nghị này, các đồng chí và bà con nhân dân đã được trang bị nhiều kiến thức pháp luật về Luật Phòng cháy, chữa cháy và Công tác thực hành phòng cháy chữa cháy tại hộ gia đình và nơi công cộng.
Góp phần nâng cao nhận thức về công tác Phòng, chống cháy nổ trên địa bàn xã ngày càng tốt hơn./.
Thực hiện: TTLuyên
[Đăng ngày
20/07/2023]
Xã Đại Lãnh: tổ chức hội nghị tập huấn Luật Hòa giải cơ sở và một số văn bản CCHC
Sáng ngày 19/07/2023 UBND xã Đại Lãnh tổ chức hội nghị tập huấn nghiệp vụ Hòa giải cơ sở và một số văn bản về CCHC năm 2023 cho các tổ hòa giải trên địa bàn xã Đại Lãnh.
Về tham dự hội nghị có ông: Trần Duy Khoang Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đại Lãnh, các đồng chí lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã và 38 đại biểu là các tổ trưởng tổ Hòa giải cơ sở, Hòa giải viên cơ sở trên địa bàn xã Đại Lãnh.
Thông qua hội nghị này, các đại biểu đã được trang bị nhiều kiến thức pháp luật về Luật Hòa giải cơ sở & Trao đổi kỹ năng, nghiệp vụ công tác hòa giải cơ sở, và chia sẻ kinh nghiệm công tác hoà giải cơ sở của tổ Hoà giải trên địa bàn xã Đại Lãnh
Qua đó, góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ làm công tác hòa giải cơ sở và vận động nhân dân thực hiện tốt các quy định của pháp luật, giữ gìn phong tục tập quán tốt đẹp, phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau, tình làng nghĩa xóm được giữ vững và xây dựng gia đình Việt Nam No ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc./.
Thực hiện: TTLuyên